Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương hay nhất

Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương hay nhất

 

“Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa tâm thế, khát khao ra đi tìm đường cứu nước của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX . Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ nổi bật của Phan Bội Châu kể về chí làm trai, khát vọng cứu nước của người trí thức yêu nước. Tham khảo bài viết dưới đây để hiểu thêm về giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như lí tưởng cao đẹp mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm.

 

Đề bài: Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương

  1. Dàn Ý Phân Tích Bài Lưu Biệt Khi Xuất Dương (Chuẩn)
  2. Mở bài

– Sơ lược về Phan Bội Châu.
– Giới thiệu Lưu biệt khi xuất dương.
 

  1. Thân bài
  2. Hai câu thơ đề: Quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới:
    – Thân nam nhi sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, không cam chịu cuộc sống bình thường mờ nhạt, mà phải có lý tưởng cao đẹp, những ước mơ và kỳ vọng lớn, tráng chí ở bốn phương.

– Dám tự thách thức bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được chướng ngại chi ly, được mất để đạt được những thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác lạ mà hiếm kẻ làm được.
– “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, thái độ hiên ngang, ý muốn thách thức, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời một cách quyết liệt và mạnh mẽ.

  1. Hai câu thực: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai” chính là nhận thức của tác giả về trách nhiệm của người làm trai với đất nước, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền. 
    – Khoảng thời gian “trăm năm”,ngụ ý chỉ về một kiếp người và gợi nhắc về một thế kỷ biến động của dân tộc.
    – “Trong khoảng trăm năm cần có tớ” là ngụ ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ đất nước.
    – “Sau này muôn thuở há không ai?” lại là một câu hỏi ngỏ, thể hiện sự kỳ vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với tầng tầng lớp lớp các thế hệ thanh niên và mai sau nữa.
  2. Hai câu luận: tầm nhận thức tân tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng kiểu mới trước tình hình dân tộc.
    – “Non sông đã chết” đó là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến.
    – “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, nhìn thẳng vào vấn đề, bóc trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên nhân khiến đất nước lâm vào tình trạng yếu hèn.
    – Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao nhiêu lâu ấy quả thực là nỗi đau xót vô cùng lớn của tác giả, nhưng với nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng quyết tâm của một chí sĩ yêu nước, thì không nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Mà với tư cách người làm trai, ông lại càng phải thể hiện vai trò phục hưng Tổ quốc bằng con đường tiên tiến chứ không phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua.
    =>  Thấy được tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và tự do của một chí sĩ yêu nước chân chính, sẵn sàng hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, để hoàn trả món nợ công danh.
  3. Hai câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm tới chân trời mới, học hỏi những kiến thức mới để quay về phụng sự cho Tổ quốc, dân tộc với phong thái hiên ngang và tự tin vô cùng. 
  4. Kết bài:

Nêu cảm nghĩ.
 

  1. Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Lưu Biệt Khi Xuất Dương
  2. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, mẫu số 1 (Chuẩn):

Phan Bội Châu là một nhà văn hóa lớn, một nhà chính trị, “một nhân vật vĩ đại”, có nhiều hoạt động tiến bộ đầu thế kỷ XX, ông được biết đến với vai trò là vị lãnh tụ tiêu biểu nhất trong các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ trước. Đặc biệt nổi bật với tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường của các nước tư bản chủ nghĩa, mặc dù sau đó thất bại nhưng cũng đã mở ra một cách nhìn mới về việc làm cách mạng cho thế hệ đi sau trong đó có Hồ Chí Minh. Nhìn chung ở đời cách mạng, cũng như quá trình hoạt động cách mạng ở Phan Bội Châu có sự kết hợp độc đáo và vẻ vang giữa hai phương diện chính trị và văn hóa, điều đó tương tự như Nguyễn Trãi hơn 400 năm về trước và Hồ Chí Minh của vài năm sau đó. Ngoài sự nghiệp chính trị nổi bật, thì Phan bội Châu cũng có một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ, ông có thể được xem là người đã mở đường cho nền văn học cách mạng Việt Nam với chất chính trị và trữ tình kết hợp chặt chẽ ăn ý trong nhiều tác phẩm. Lưu biệt khi xuất dương chính là một tác phẩm mang đầy đủ phong cách sáng tác ấy của Phan Bội Châu, cùng với hoàn cảnh ra đời đặc biệt gắn liền với sự chuyển biến trong tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu.

Sở dĩ nói Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ gắn liền với sự chuyển biến trong tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu, bởi bài thơ được sáng tác vào năm 1905, trước ngày ông lên tàu cùng một số thanh niên ưu tú khác sang Nhật tìm đường cứu nước. Bài thơ là sự cổ vũ, động viên khích lệ tinh thần đầy hào khí dành cho những con người mang tư tưởng, tráng chí tốt đẹp ra đi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, dẫu biết có nhiều gian nan trắc trở. Cũng lại là một tác phẩm gợi mở, hướng những con người ở lại, hướng nhân dân ta về một niềm tin rằng mai đây đất nước sẽ tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn, bộc lộ nhưng ý chí, quyết tâm, tư tưởng tiến bộ của một nhà nho yêu nước, một vị lãnh tụ hết lòng vì dân tộc. 

Như Nguyễn Ái Quốc đã viết trong tác phẩm chính luận Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của những lời tán dương dành cho cụ Phan đầy sâu sắc và trân trọng rằng: “một bậc anh hùng, một vị thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn kính”. Điều đó đủ để thấy rằng ở Phan Bội Châu là hội tụ những vẻ đẹp quý giá của một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn hòa quyện giữa tinh thần của một nhà nho và một chí sĩ cách mạng theo khuynh hướng tư bản (thậm chí còn có đôi chút khuynh hướng chủ nghĩa xã hội). Trong Lưu biệt khi xuất dương, vẻ đẹp nhân cách, tư tưởng của Phan Bội Châu bộc lộ từ hai câu thơ đầu, mà có thể đặt cho nó cái tên là chí làm trai trong thời đại mới. 

“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX trong lịch sử nước nhà là một giai đoạn đầy biến động dữ dội, tháng 1/8/1958, Pháp nổ phát súng đầu tiên chính thức xâm lược nước ta lần thứ nhất, trong khi đó triều đình nhà Nguyễn yếu hèn, chế độ phong kiến thối nát, có nguy cơ sụp đổ, không đủ sức để đứng lên lãnh đạo nhân dân chống giặc ngoại xâm như các thế hệ cha ông đi trước. Các nhà nho yêu nước, thương dân nhưng đa số bất lực trước thời cuộc, bế tắc nên tìm cách thoái ẩn, trốn tránh cuộc đời. Chỉ riêng Phan Bội Châu, là một trong số ít các nhà nho có nhiều hoạt động sôi nổi trong các phong trào nổi dậy chống ngoại xâm. Bởi cụ Phan có một nhân cách văn hóa lớn, người tiếp nhận các khuynh hướng chính trị một cách đa dạng, nhiều chiều, là người trực tiếp tham gia các phong trào Cần Vương và một số phong trào khởi nghĩa truyền thống, Phan Bội Châu tuy là một nhà nho chính thống, nhưng lại sớm nhận ra những yếu điểm và sự lỗi thời của các phong trào này. Phan Bội Châu nhận thấy cần phải có một sự cải cách mới, một con đường mới cho cách mạng Việt Nam, người xem xét chế độ quân chủ lập hiến, rồi cuối cùng quyết định giải phóng dân tộc theo con đường mà các nước tư bản chủ nghĩa đã làm và rất thành công tiêu biểu đó là Nhật Bản. Từ đó phong trào Đông Du ra đời, với một hy vọng cải biến được tình hình hỗn loạn như rắn mất đầu của các phong trào khởi nghĩa lẻ tẻ trong nước. Phan Bội Châu có thể xem là một vị anh hùng biết thời biết thế, với ông trong một bối cảnh mới thì nhân cách của nhà nho vẫn phải giữ, nhưng phải cải biến làm sao cho không bị lạc hậu, mà phải tương đồng, đuổi kịp với thời cuộc. Trong đó chí nam nhi là điều cốt yếu của một nhà nho yêu nước. Phan Bội Châu quan niệm “Làm trai phải lạ ở trên đời”, chữ “lạ” ở đây tức là thân nam nhi chí ở bốn phương, phải tạo cho mình sự khác biệt, nổi bật hẳn lên ở các phương diện sự nghiệp, tư tưởng, mang trong mình những khát khao, hoài bão cao đẹp và nỗ lực hết mình thực hiện chúng. Đã là nam nhân thì không cam chịu một cuộc sống bình thường, an ổn, quanh quẩn bên cái ao, nắm thóc, con gà, vừa lòng với cuộc sống điền viên nhi nữ thường tình mà phải phấn đấu gây dựng sự nghiệp lớn, công danh lớn. Ví như thuở trước người trai miệt mài đèn sách, quyết thi cử lấy công danh làm rạng rỡ tổ tông hoặc là tòng quân chinh chiến sa trường, bảo vệ biên cương, để trả mối nợ nước. Thì nay trong thời đại đầy biến động, người nam nhi lại cần phải có ý chí, thay đổi tư tưởng của bản thân để trả món nợ công danh cho đất nước, chứ không phải bất lực, trốn tránh như nhiều nhà nho đương thời, vì sự cố chấp, bảo thủ lạc hậu ôm khư khư quan niệm Nho học đã lỗi thời để than khóc, xót thương. Quan niệm chí làm trai ấy của Phan Bội Châu lại càng được bộc lộ rõ trong câu thơ tiếp theo “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Câu thơ ấy đã bộc lộ sự mạnh mẽ, ý chí quyết đoán, thách thức cả vũ trụ, thể hiện tầm vóc to lớn của nhà thơ trước cán cân tạo hóa, Phan Bội Châu khẳng định vận mệnh của bản thân phải do chính bản thân mình nắm giữ, đồng thời ý thơ còn chỉ ra tráng chí, lý tưởng thay đổi “càn khôn” của tác giả. Mà thực tế “càn khôn” ở đây chung quy vẫn là chỉ đến sự biến động của thời cuộc, giặc Pháp xâm lược và chế độ phong kiến đổ nát, khiến đất nước lầm than, nhiễu loạn. Phan Bội Châu không can tâm, không đành lòng nhìn thấy cảnh đau thương ấy, người phải làm gì đó cho Tổ quốc, cho dân tộc chứ không phải là đứng yên bất lực hay rơi lệ xót thương.

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai”

Đến hai câu thơ tiếp theo chính là ý thức của tác giả về vai trò của bản thân khi đứng trước thời cuộc, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. “Khoảng trăm năm” là một cụm từ rất hay mang nhiều lớp nghĩa khác nhau, trước là để ám chỉ về khoảng thời gian đầy biến động của đất nước giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi giặc Pháp xâm lược, triều đình bất lực, cùng với sự nổ ra lẻ tẻ và sự thất bại của các phong trào khởi nghĩa truyền thống. Đó là khoảng thời gian khủng hoảng nhất trong lịch sử dân tộc kể từ khi đất nước giành được quyền độc lập tự chủ từ tay giặc phương Bắc năm 938. Bản thân Phan Bội Châu sinh ra đúng lúc đất nước đầy đau thương, thế nên với tư cách là một bậc đại trượng phu, ông tự ý thức được trách nhiệm của mình dành cho đất nước. Tạo hóa đã đặt con người ta vào nghịch cảnh, cuộc đời vốn chỉ có trăm năm thì cần sống sao cho ra dáng “nam nhi” để không uổng công sắp đặt của tạo hóa. Ý của Phan Bội Châu chính là như vậy. Và cụ Phan cũng không chỉ nói riêng hay đặt ra kỳ vọng, lý tưởng cứu quốc, tạo lập công danh cho chính bản thân mình, mà với ông “khoảng trăm năm” này nó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức cho tất cả những đấng nam nhi trong thiên hạ. Ông có một niềm hy vọng rất lớn vào các thế hệ mai sau, câu hỏi ngỏ ấy chính là lời khích lệ, động viên sâu sắc đến nhiều thế hệ thanh niên trong nước, khuyến khích họ tự tạo dựng một lý tưởng cao đẹp, mạnh mẽ xông pha để trả mối nợ công danh cho nước non, cho dân tộc. Phan Bội Châu đã bước những bước đi đầu tiên đầy khó khăn, nhưng tràn đầy tráng chí quyết tâm và hy vọng về một tương lai khởi sắc, vực dậy đất nước, nhưng sau trăm năm của ông, ai sẽ là người tiếp tục con đường ấy, Phan Bội Châu cần những người cộng sự, những người tiếp nối, để biến lý tưởng cách mạng ấy thành sự thật.

““Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”

Đến hai câu thơ luận, người ta mới lại càng thấy được nhân cách văn hóa cao đẹp của Phan Bội Châu, chứng minh cho nhận định rằng cụ Phan là một nhà nho tiến bộ, một nhà văn hóa có tiếp cận đa chiều, đa diện, sự cách tân và bắt kịp xu thế của thời đại đầu thế kỷ XX. Như đã nói qua, các phong trào yêu nước truyền thống thất bại thảm hại mà đặc biệt là phong trào Cần Vương khiến các nhà nho yêu nước nhụt chí và thất vọng, thì trái lại Phan Bội Châu lại bước ra từ chính đống đổ nát ấy, rút kinh nghiệm tiếp thu nền văn hóa tư bản và trở thành người tiên phong cứu nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là một bứt phá lớn. Cụ nhận thức rất rõ tình trạng của đất nước “non sông đã chết” đó là cái chết của một chế độ, một triều đại phong kiến vốn dĩ đã suy sụp từ hàng trăm năm nay, khi mà cả vua lẫn quan ai nấy đều hèn nhát, sợ sệt chỉ ham vinh hoa phú quý mà chấp nhận để kẻ thù chà đạp đất nước. Một đất nước không có chủ quyền, không có tự do, và một bộ máy bù nhìn thì chẳng phải đã “chết” hay sao. Và với một nhà nho yêu nước, một con người ngay thẳng sự khom mình ấy của triều đình, sự đớn đau của dân tộc, sự ngang tàn của bọn thực dân quả thực là một nỗi nhục nhã khôn cùng. “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, chính là nhận thức của Phan Bội Châu về sự lỗi thời và lạc hậu của nền Nho học. Bằng tư duy phóng khoáng, sự lỗi lạc của mình, ông nhận ra trong giờ phút này Tam tự kinh, Luận ngữ hay các  triết lý Nho học không thể đấu lại với súng đạn của kẻ thù, không thể vực dậy đất nước bằng lối tư duy cứng nhắc, thiếu linh hoạt ấy nữa. Với tư cách là một nhà nho chính thống, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, đó là một nhận thức vô cùng phũ phàng và đau đớn. Nhưng không chìm đắm trong bất lực, bế tắc như nhiều nhà nho đương thời, Phan Bội Châu đã sẵn sàng từ bỏ những gì mình gắn bó bao nhiêu năm trời để tiến đến với một tư tưởng mới, đặt những bước đi đầu tiên trên con đường cứu nước theo khuynh hướng tư bản. Thậm chí về sau này, Phan Bội Châu sau khi bị giam lỏng ở Huế, sau thất bại với phong trào Đông Du, cụ lại cũng nhận thức và có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội qua tư tưởng Mác Lê-nin. 

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”

Sau những câu thơ mang đậm tính chất chính trị, lý tưởng cao đẹp thì đến hai câu thơ cuối chất trữ tình lãng mạn cách mạng trong thơ của tác giả được thể hiện khá rõ. “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió” chính là thể hiện khát vọng lý tưởng của tác giả khi đến một vùng đất mới với hy vọng học hỏi được những kiến thức bổ ích mang về phụng sự cho đất nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, lầm than. Ở đó tầm vóc, tráng chí của người anh hùng được thể hiện một cách bay bổng và phóng khoáng, bộc lộ sự tự do, niềm vui sướng, hoài bão to lớn mà Phan Bội Châu ôm ấp khi lên đường sang Nhật. Cảnh tượng “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”, mang đến cho người đọc khung cảnh kỳ vĩ của thiên nhiên trong ngày người chí sĩ ra đi, thể hiện tầm vóc lớn lao, tâm hồn cao đẹp, kiêu hãnh, hùng tráng của người ra đi nổi bật hẳn lên trên cái nền sóng nước, mây trời. 

Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ hay và đặc sắc của Phan Bội Châu thể hiện rõ khuynh hướng trữ tình chính trị trong thi ca của một nhà nho tiên tiến, người mở đường cho cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng mới, dù không thành công, nhưng nó đã trở thành tiền đề, bài học kinh nghiệm sâu sắc cho lớp người đi sau, tiêu biểu là Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã bộc lộ nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp của Phan Bội Châu trong thời kỳ đất nước có nhiều biến động, đồng thời cũng là lời động viên sâu sắc, sự khích lệ đối với nhiều tầng lớp thanh niên Việt Nam đứng dậy đấu tranh và hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh đuổi ngoại xâm. 

  1. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương, mẫu số 2 (Chuẩn)

Phan Bội Châu (1867-1940), quê tại Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ngay từ nhỏ ông đã thể hiện là mình là một người tài hoa xuất chúng, lại sớm có lòng yêu nước và ý thức về việc giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cũng là một người mang quan niệm nhập thế tích cực vô cùng sâu sắc, nặng lòng với nghiệp công danh cùng món nợ của phận nam nhi. Ông tham gia tích cực vào nhiều phong trào chống Pháp và sau nhiều lần thất bại cuối cùng ông đã nhận thức được sự sai lầm, yếu kém trong phong cách tổ chức của các phong trào yêu nước thời bấy giờ, từ đó đề ra chủ trương cứu nước theo con đường tư sản. Ông nung nấu ý định cho các thanh niên ưu tú của nước nhà sang các nước như Nhật Bản, Trung Quốc để học hỏi rồi trở về giúp đỡ đất nước, còn gọi là phong trào Đông Du, với tên gọi tổ chức là Duy Tân hội. Sự tiến bộ trong tư tưởng cứu quốc của Phan Bội Châu dường như đã mở ra một con đường sáng cho cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu, vào những năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, dẫu rằng kết quả không như mong đợi. Bên cạnh vai trò là một nhà hoạt động cách mạng xuất sắc, có nhiều đóng góp to lớn trong công cuộc giải phóng đất nước thì Phan Bội Châu còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ, nhà văn lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, với số lượng tác phẩm lớn, được xem là người mở đầu cho nền văn học cách mạng Việt Nam, mà sau Tố Hữu chính là người đưa nó bước tới đỉnh cao. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Phan Bội Châu, nó không chỉ đơn thuần là một bài thơ thể hiện lý tưởng cách mạng của chí sĩ yêu nước, mà còn đánh dấu mốc quan trọng mở đầu công cuộc tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của nhà thơ.

Lưu biệt khi xuất dương được viết vào năm 1905, trước khi Phan Bội Châu cùng một số thanh niên ưu tú khác lên tàu vượt  biển sang Nhật Bản học tập. Tác phẩm có ý nghĩa động viên, cổ vũ tinh thần cho người ra đi, đồng thời cũng có tác dụng củng cố tinh thần, niềm tin, hướng người ở lại về một tương lai tốt đẹp hơn, sáng lạn hơn của đất nước. Thể hiện được rõ chí khí làm trai của một nhà nho, với tinh thần yêu nước sâu sắc, quyết tâm trả món nợ công danh cho đời khi Tổ quốc lâm nguy, lịch sử có nhiều biến động. 

Trong hai câu thơ đầu tác giả đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình về chí làm nam nhi trong thời đại mới, một thời đại đầy biến động, buộc con người ta phải có những biến đổi về ý chí để tạo lập một con đường riêng cho bản thân và cho dân tộc, đất nước mà vẫn giữ được khí tiết của một nhà nho chân chính, trong vai trò một nhà cách mạng sôi nổi.

“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”

Phan Bội Châu quan niệm rằng thân nam nhi “vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao” sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, tức là không cam chịu cuộc sống bình thường mờ nhạt, quanh quẩn bên chốn “ao tù nước đọng”, mà phải tự làm cho mình có điểm nhấn, nổi bật thông qua những lý tưởng cao đẹp, những ước mơ và kỳ vọng lớn, tráng chí ở bốn phương. Người nam nhi phải dám tự thách thức bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được chướng ngại chi ly, được mất, vượt ra khỏi mọi giới hạn khuôn phép một cách mạnh mẽ và dũng cảm, để đạt được những thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác lạ mà hiếm kẻ làm được. Để “thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt/Còn hơn le lói suốt trăm năm”, để cuộc đời nam nhi sống sao cho xứng với hai chữ “nam nhi”, có cống hiến cho cuộc đời, trả cho kỳ được món nợ công danh, chớ để hoài phí một cuộc đời mờ nhạt vô nghĩa. Cái quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới của Phan Bội Châu tiếp tục được làm rõ thông qua câu “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, thái độ hiên ngang, ý muốn thách thức, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời một cách quyết liệt và mạnh mẽ. Chứ không phải là ý muốn cuộc sống an nhàn, chấp nhận sự sắp đặt của tạo hóa, bộc lộ khẩu khí mạnh mẽ, ngang tàn của bậc đại trượng phu, mang khí thế tự tin, táo bạo và hiên ngang vô cùng. Ý thơ của Phan Bội Châu không chỉ nằm ở việc thể hiện tráng chí của bản thân mà bên cạnh đó còn mang ý nghĩa khích lệ các thanh niên trong thời đại mới, biết đứng lên tự lực, tự cường, theo đuổi lý tưởng cao đẹp, phụng sự cho Tổ quốc, nâng tầm vóc của bản thân mình ngang tầm vũ trụ, tạo hóa, rũ bỏ cuộc đời tầm thường, quanh quẩn ao vườn, ruộng cá, để kiến thân lập nghiệp.

Trong hai câu thơ tiếp “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai” chính là nhận thức của tác giả về trách nhiệm của người làm trai với đất nước, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền. Đặc biệt là trong thời buổi lịch sử dân. tộc có nhiều biến đổi, giặc dữ lăm le xâm phạm chủ quyền thì thanh niên lại càng phải biết đứng ra phụng sự cho Tổ quốc. Tác giả đã vẽ ra khoảng thời gian “trăm năm”, trước là ngụ ý chỉ về một kiếp người như quan niệm của ông cha ta từ bao đời nay, một đời tức chỉ trăm năm. Thứ hai nữa khoảng thời gian trăm năm còn là để gợi nhắc về một thế kỷ biến động của dân tộc, thế sự đã biết bao lần đổi thay, sự suy tàn của chế độ phong kiến, sự xâm lược của đế quốc phương Tây khiến nhân dân biết bao phen lầm than. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ” là ngụ ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ đất nước. Mà người làm trai, sức dài vai rộng trong giữa sự sắp đặt của tạo hóa, đã ban cho ta một khoảng thời gian đầy biến động, thì bản thân người chí sĩ phải làm sao cho xứng với sự kỳ vọng của tạo hóa, cũng như xứng đáng với cái danh nam nhi của mình. Nếu như câu trước là khẳng định tầm quan trọng của đấng nam nhi trước thời cuộc, là sự nhận thức về lý tưởng cũng như vai trò của bản thân với đất nước thì câu thơ “Sau này muôn thuở há không ai?” lại là một câu hỏi ngỏ, thể hiện sự kỳ vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với tầng tầng lớp lớp các thế hệ thanh niên và mai sau nữa. Phan Bội Châu đã dùng chính tráng chí, lý tưởng cao đẹp của mình làm tấm gương sáng, cũng như đặt những bước chân đầu tiên cho con đường cách mạng tiên tiến của dân tộc, của thanh niên Việt Nam. Thức tỉnh trong họ những nhận thức về tinh thần cách mạng, lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của người thanh niên, và sự tự tin sẵn sàng đối mặt với sóng gió của bậc đại trượng phu.

Đến hai câu thơ luận, Phan Bội Châu lại cho chúng ta thấy tầm nhận thức tân tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng kiểu mới trước tình hình dân tộc, trước sự suy thoái của chế độ phong kiến và nền nho học đang dần mất đi vị thế vốn có của mình.

“Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”

“Non sông đã chết” đó là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến, đất nước lầm than thế nhưng bọn đầu sỏ cầm quyền, những con người đứng đầu một đất nước lại sợ sệt, chỉ dám luồn cúi, nịnh bợ đám giặc Tây để níu kéo những ngày tháng gấm vóc lụa, là hữu danh vô thực, còn mặc kệ số phận dân tộc và đất nước. Một đất nước nhưng không có chủ quyền, không có tự do, triều đình phong kiến chỉ là một mớ bù nhìn, thối nát tận xương thì còn cách bên bờ diệt vong là mấy bước chân nữa đâu. Thế nên tác giả nói “non sông đã chết” cũng chẳng có gì là không đúng, đặc biệt một người với tráng chí, với tinh thần yêu nước mạnh mẽ như Phan Bội Châu thì đứng trước viễn cảnh ấy thì quả thật là nhục nhã khôn cùng. Đến câu thơ sau “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, người ta lại càng khâm phục cái nhân cách và nhận thức của Phan Bội Châu. Bởi vốn dĩ Phan Bội Châu là một nhà nho chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ nền giáo dục phong kiến từ thuở thiếu thời, thế nhưng ông không như một số những nhà nho cố chấp ôm khư khư giấc mộng hão huyền về việc phục hưng những thứ vốn đã cũ kỹ, lạc hậu mà trái lại ông lại chính là một trong những người đầu tiên nhìn thẳng vào vấn đề, bóc trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên nhân khiến đất nước lâm vào tình trạng yếu hèn. Không phủ nhận rằng Nho học quả thực là một kho tàng rộng lớn, mang đến cho con người sự giáo dục tốt đẹp, thế nhưng nhìn vào bối cảnh hiện tại nó chỉ đem đến những sự ảo vọng không có thực, không có ích trong việc diệt giặc thù, giành lại chủ quyền dân tộc. Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao nhiêu lâu ấy quả thực là nỗi đau xót vô cùng lớn của tác giả, nhưng với nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng quyết tâm của một chí sĩ yêu nước, thì không nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Mà với tư cách người làm trai, ông lại càng phải thể hiện vai trò phục hưng Tổ quốc bằng con đường tiên tiến chứ không phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua. Từ đó ta thấy được tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và tự do của một chí sĩ yêu nước chân chính, sẵn sàng hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, để hoàn trả món nợ công danh.

Cuối cùng ở hai câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm tới chân trời mới, học hỏi những kiến thức mới để quay về phụng sự cho Tổ quốc, dân tộc với phong thái hiên ngang và tự tin vô cùng. Những hình ảnh “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc” đã gợi ra một bối cảnh không gian rộng lớn, khoáng đạt, thể hiện tâm hồn yêu đời, cùng những khát vọng, lý tưởng cao lớn muốn vươn ra biển lớn của người chí sĩ. Tầm vóc con người trở nên kì vĩ, lớn lao nổi bật hẳn trên cái nền của thiên nhiên bởi sự kiêu hãnh, tráng chí hùng mạnh bên trong tâm hồn nhân vật trữ tình. 

Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ hay, có nội dung và ý nghĩa lớn, không chỉ bộc lộ những khát vọng, lý tưởng cao đẹp của một nhà hoạt động cách mạng thời đại mới, mà còn là lời động viên khích lệ, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, cũng như thức tỉnh sự tự tin, lý tưởng và khát vọng cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động. Có thể nói rằng Lưu biệt khi xuất dương là một trong những bài thơ mang khuynh hướng trữ tình cách mạng đầu tiên, khơi nguồn cho nền văn học cách mạng của dân tộc đạt đến đỉnh cao về sau này.

 

  1. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương, mẫu số 3:

Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một tác phẩm tiêu biểu.

Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn bè, đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản năm 1905. “Lưu biệt khi xuất dương” đã thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ đầy trách nhiệm của tác giả, thể hiện niềm hăm hở, quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”.

Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa nhưng đặc biệt được đề cao ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã viết:

“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:

“Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Muốn trở thành bậc nam nhi được mọi người công nhận thì phải biết phấn đấu, lập được công trạng, có được danh vọng, có sức vóc “vẫy vùng” khắp bốn bể để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng ấy của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan điểm về chí làm trai như một tuyên ngôn đầy khí thế:

“Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.

(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)

Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có nghĩa là phải sống khác mọi người, không được giống với bất kì ai để tạo nên điểm riêng biệt. “Lạ” cũng có nghĩa là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, nản chí để mặc cho hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, phấn đấu đạt được giấc mộng công danh. Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ không để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông không đầu hàng, khuất phục trước số phận, hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám ngạo nghễ và thách thức với trời đất.

Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:

“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)

Trong cuộc đời trăm năm hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho đất nước, làm nên những công trạng phi thường, lớn lao để xứng đáng làm một nam nhi lưu danh vào thiên cổ ngàn năm. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy trách nhiệm, chủ động tích cực chứ không phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho lợi ích của cá nhân. Ở hai câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi bật lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tên tuổi của mình trong sử sách để không hổ thẹn với chí làm trai mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Cống hiến cho đời vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của bậc trượng phu. Trong một trăm năm hữu hạn ấy, người nam nhi phải thực hiện được chí làm trai và cũng trong ngàn năm sau đó phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời thúc giục khơi dậy tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trai tráng phải góp hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.

Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu lên trách nhiệm mà người nam nhi cần có đối với vận mệnh dân tộc:

“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”!

(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)

Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự nhục nhã, ê chề. Sách vở, người có học thức cũng trở thành vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức được thời cuộc. Sách vở cũng không có ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất lúc bấy giờ là tìm được con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình lãnh đạo sẽ gặt hái được nhiều thành quả giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc.

Hai câu kết của bài thơ đã thể hiện khí thế, sự quyết tâm cao độ trên con đường cứu nước mà mình đã chọn của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:

“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.

(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)

Ông có khát vọng lớn lao muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Khát khao đó thể hiện ý chí, khát vọng hành động và tư thế của nhân vật trữ tình. Con người muốn bay lên cùng cơn gió để bắt kịp thời đại. “Bể đông”, “cánh gió”, “sóng bạc” là những hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng ẩn dụ cho khát vọng vượt lên hiện thực tăm tối để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu. Tác giả “nguyện” vì lí tưởng cao đẹp mà vượt qua tất cả những gian khó, thử thách để chạm được đích đến, hoàn thành chí làm trai của bậc nam nhi ở đời. Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt tuy chưa dịch sát nghĩa của từ “nhất tề phi” nhưng cũng đã phần nào thể hiện sức mạnh, lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần chiến đấu sục sôi của tác giả. Trong bối cảnh của thời đại mới, con người cần phải có những tư tưởng hành động bắt kịp thời đại, có như vậy mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, mang lại sự tự do cho dân tộc. Và với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị lực lượng hùng mạnh để nắm bắt thời cơ giành lại nền độc lập cho nước nhà.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật có giọng điệu hào hùng, tràn đầy tâm huyết có sức mạnh lay động mạnh mẽ đến các thanh niên yêu nước. “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa tâm thế, khát khao ra đi tìm đường cứu nước của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. Nhân vật trữ tình mang một vẻ đẹp mới mẻ, tràn đầy khí thế của thời đại.

 

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Ads Blocker Detected!!!

Chúng tôi đã phát hiện ra rằng bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Hãy hỗ trợ chúng tôi bằng cách tắt các trình chặn quảng cáo này.