Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất

 

Vợ nhặt của Kim Lân viết về nạn đói năm 1945 nhưng không nhằm mục đích phơi bày thực trạng thê thảm của con người mà từ hiện thực đen tối ấy làm sáng lên vẻ đẹp của tình người. Bài văn phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân sẽ giúp các em tìm hiểu về vẻ đẹp của tình người ấy qua ba nhân vật chính của truyện là anh Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt.

Xem thêm:

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất

  1. Phân Tích Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Kim Lân, Mẫu Số 1 (Chuẩn):

Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,… Kim Lân cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt Nam khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngòi bút sâu sắc và cái nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng cười sâu cay của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh lùng, đau đớn từng câu văn của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không chủ tập trung vào việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời hay những nỗi đau thân phận, mà tác giả dựa vào đó để làm nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp tâm hồn nhân vật, bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của những tình cảm cao quý như tình thân, tình yêu, thứ làm thay đổi con người và cuộc sống của họ dẫu trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đời sáng tác của Kim Lân ngắn, và ông không để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt, một tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác của tác giả. 

 Truyện ngắn Vợ nhặt diễn ra trong bối cảnh khá đặc biệt – nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ Bắc Kỳ đến Quảng Trị chịu chết đói, cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao viết trong Đôi mắt rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những từ ngữ quá nặng nề, gay gắt, không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính để mô tả lại viễn cảnh khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được cái tiêu điều, thê thảm của một xóm ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc, bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Ớn lạnh, ám ảnh với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp” như tiếng gọi của tử thần, còn con người thì đang bước dần từng bước chậm rãi đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những con người ấy dường như đã nhìn thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình sống nổi”. Đó là một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong các dòng văn xen kẽ, ông không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong một vài câu văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn ấy. Không ai lạ gì cảnh người chết đói, thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có sức để đi chôn, sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là không có cả chiếu để cuốn, thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân không hề né tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm ở chỗ phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả đã tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình người, của niềm tim toát lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người đang bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và bà cụ Tứ. 

Nhân vật Tràng là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong nạn đói năm 44-45, lai lịch của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ cư”, và từ ba chữ này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng là người mang số phận tha hương cầu thực, không thể sống nổi ở quê hương mình nên đành phải tìm đến nơi khác kiếm kế sinh nhai, điều đó đem đến cho anh nhiều nỗi khổ, sự kỳ thị, phân biệt đối xử của dân bản địa, dẫn đến việc anh không được chia ruộng đất (vốn là tài sản lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ), vô cùng nghèo khổ. Không chỉ vậy, dân ngụ cư cũng không được sống trong không gian làng xóm, mà phải sống riêng biệt ở rìa làng hoặc ngoài đê, đồng thời cũng không được tham gia bất cứ một sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Có thể nói là vô cùng đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa con côi dựa dẫm vào nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn định. Thêm nữa Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch được tác giả ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời cười hầy hầy.

Chính vì ngoại hình xấu lạ ấy mà Tràng chỉ có sức hấp dẫn với những đứa trẻ trong xóm, chứ không lọt được vào mắt xanh của bất cứ cô gái trẻ nào, điều đó dẫn tới việc Tràng chẳng thể lấy nổi một cô vợ. Sau những nét về lai lịch, ngoại hình để bộc lộ tính cách nhân vật Tràng Kim Lân đã đặt anh vào một sự kiện mang tính bước ngoặt, cũng chính là tình huống truyện – Tràng “nhặt” được vợ. Đó là khi Tràng đang đẩy xe bò, để cho đỡ mệt anh đã hò mấy câu cho vui miệng, chứ cũng không chủ đích chòng ghẹo ai “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu nói ấy, thì thị lại ra đẩy xe cùng Tràng thật, rồi còn cười tít mắt với anh, khiến anh vô cùng khoái chí, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở đó. Trong lần gặp thứ hai, Tràng và thị vẫn chưa có cái gì gọi là tình yêu mà nó chỉ là sự chia sẻ, cảm thông giữa những người đồng cảnh ngộ, khi thị sưng sỉa, cong cớn vì miếng ăn thì Tràng sẵn sàng giúp đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc và thị cũng chẳng ngại ngần gì mà ăn một lượt không chuyện trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyện trò và một câu bông đùa nữa của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà thị theo Tràng, trở thành vợ của Tràng thật, không cần mối lái, lễ hỏi, chỉ với 4 bát bánh đúc và một câu đùa, hai con người ấy đã trở thành vợ chồng với nhau. Đó là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả lẫn nhân vật Tràng, anh đã có vợ bằng một phương thức rất kỳ quái, còn thị thì trở thành một người vợ “nhặt”. Từ sự kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vật này có nhiều diễn biến tâm trạng khác nhau. Trong buổi chiều hôm trước, trước khi dẫn vợ về nhà, Tràng vốn dĩ xưa nay là một người thô kệch, cục mịch thế mà lại trở nên tinh tế, biết chăm sóc người khác lạ kỳ.

Thương vợ tàn tạ, rách nát quá, về nhà chồng mà chẳng có gì ngoài bộ đồ như tổ đỉa và cái nón rách, Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua một cái thúng con đựng vài thứ đồ lặt vặt để cho thị đỡ tủi thân, đồng thời dẫn thị di ăn một bữa no nê thay cho tiệc mừng cưới. Không chỉ vậy Tràng còn mua thêm hai hào dầu (việc làm vốn được gọi là hoang phí trong thời buổi nạn đói hoành hành), để về thắp sáng nhà cửa, đón thị về làm dâu mới. Đó là một cách làm rất cảm động và đủ tinh tế của một người chồng biết lo nghĩ, nhân hậu. Trên đường về Tràng tỏ ra rất sung sướng, phấn khởi cái niềm vui nó trào ra hiện rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân còn dùng một câu văn rất cảm động để diễn tả tâm trạng của anh lúc này “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng trong thâm tâm Tràng lúc này Tràng sự vui mừng, niềm hạnh phúc đã xóa mờ hết tất cả những gì khó khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước, kể cả cái chết. Khi về đến nhà, đứng trong một không gian hẹp hơn, bỗng Tràng cảm thấy ngượng, rồi thấy sờ sợ, bởi lẽ sự quen biết giữa thị và Tràng chẳng đủ để hai người có thể đối đãi hẳn với nhau như những người thân, chứ đừng nói là một cặp vợ chồng, họ chưa có tình yêu, sợi dây duy nhất nối giữa họ chính là sự đồng cảm, thương xót của Tràng, và thị thì cần miếng ăn. Cuối cùng là khi Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới, chờ đợi sự đồng ý với mẹ, thì anh lại chuyển sang trạng thái nôn nóng, sốt ruột, đi đi lại lại, ra sân ngóng trông mẹ về, rồi đón mẹ một cách rối rít, mừng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng cũng bộc lộ rõ sự chững chạc, nghiêm túc, thể hiện sự trân trọng trìu mến với u già, và cũng là sự trân trọng hạnh phúc bất ngờ này. 

Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lòng Tràng có nhiều điều thay đổi, hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm ái, lửng lơ như từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà mình đang nắm giữ, nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc nhà, thì giờ được đem ra sân hong khô, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường khô cong thì bây giờ đầy ắp nước, đống rác mùn được dọn sạch,…), thứ hai nữa là không khí trong nhà bỗng trở nên ấm áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ chuyện có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức đã dẫn tới kết quả là sự khao khát, ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm đến chuyện ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên, Bắc Giang nhân dân nổi lên cướp kho thóc của Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt Minh mà mình đã tránh né, rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ, vẩn vơ khó hiểu, điều ấy chứng minh rằng nếu được cho quay lại thời gian khi ấy, có lẽ Tràng đã không ngại ngần mà gia nhập Việt Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, và trong tương lai, nếu gặp lại cảnh ấy có lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép lại với hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí óc Tràng, đã mở ra những hy vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng và cả những người dân trong nạn đói năm 44-45.

Nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Thị là người có lai lịch không rõ ràng, không tên không tuổi, không quê quán họ hàng, thân phận của thị chính là một số không tròn trịa, phản ánh số phận rẻ rúng như rơm như rác của con người trước nạn đói năm 1944-1945. Thị không phải là người phụ nữ có ngoại hình hấp dẫn, Kim Lân đã dùng những nét vẽ rất thảm hại để tái hiện lại dáng vẻ tàn tạ của thị như “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng của thị cũng chẳng lấy gì làm hay ho, ngôn ngữ chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa chỉ vì một miếng ăn. Cử chỉ, hành động vô duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bản chất của thị hay không? Câu trả lời là không, bởi thực tế trong những biểu hiện khi về làm vợ Tràng thị đã bộc lộ nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt, như đã phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động của thị đều có vẻ phản cảm và đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một chút sang khuynh hướng nhân văn nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có những hành động, ngôn ngữ như vậy tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có miếng ăn cứu đói,  thị không muốn chết, đồng thời cũng bộc lộ khao khát được hạnh phúc, thị cũng muốn có một tấm chồng để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính là vẻ đẹp nữ tính được bộc lộ sau khi về làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị trở nên thẹn thùng, bẽn lẽn như bất kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy nón che mặt, bởi ngại ngùng trước những ánh mắt xăm soi của dân làng. Khi bước về nhà chồng, nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nổi thất vọng qua tiếng thở dài, thế nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt trên chợ tỉnh, thị lại im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ không hề buông lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên rất lễ phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau đêm tân hôn thì thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết tâm làm một người vợ hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong ứng xử thị cũng trở nên rất tế nhị, thông minh, khi bà cụ mang nồi “chè khoán” ra với niềm vui mừng, thì bản thân thị cũng rất trông mong vào món chè ngon ngọt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị tối lại” – thị thất vọng, tuy nhiên thị cố giấu sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, không nhìn ai, cũng không nói câu gì để tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất không khí vui vẻ của gia đình. Một vẻ đẹp nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã đem đến cho cả gia đình một thông tin mới, mở ra một lối thoát cho Tràng, bà cụ Tứ và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu. 

Nhân vật thứ 3 của tác phẩm đó chính là nhân vật bà cụ Tứ. Đây là một người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, cả đời long đong lận đận, mong ước lớn nhất với cuộc đời là lấy vợ cho con mà mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc đau gạo kém, giữa lúc nạn đói người chết như ngả rạ thì anh con trai lại “nhặt” được một người vợ theo không, khiến bà vừa mừng vừa lo. Trước cảnh Tràng lấy vợ, trong buổi chiều hôm trước bà vợ đầu tiên là hết sức ngạc nhiên và bối rối, trước lời chào của thị, bà cụ Tứ chỉ im lặng vì thấy không thể tin nổi là con mình lại có được vợ mà không cần cưới hỏi. Sau sự ngạc nhiên ấy chính là những cảm xúc lẫn lộn sau khi hiểu ra ngọn nguồn cớ sự, khi nghe Tràng giải thích thì bà “cúi đầu nín lặng”. Bà thấy buồn, thấy tủi cho mình và cho con trai, bởi lúc người ta cưới vợ cho con là lúc nhà ăn nên làm ra, có tiền có của, làm được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì, lại còn ngay giữa nạn đói sống nay chết mai. Không chỉ buồn mà bà còn lo lắng cho tương lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì thấy rằng may mắn thị có gặp phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng, chứ không thì Tràng có lẽ phải chịu ế cả đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc đan xen, bà cụ Tứ cuối cùng cũng lấy lại tinh thần, bộc lộ tình yêu thương con cái, tấm lòng nhân hậu thông qua cách hành xử với người con dâu. Đó là câu nói “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thức nhận thị làm dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có những lời dặn dò, động viên hướng các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi buồn nỗi lo trong lòng để truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn của các con, bà thay đổi hẳn không còn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm hy vọng tràn trề, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói toàn những chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,… Sau đó lại cố gắng nối dài niềm vui cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi bằng “chè khoán”, cố xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng lại càng trở nên rõ ràng hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang miệng, nghẹn bứ trong cổ của cả ba người. 

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc phản ánh hiện thực xã hội thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác giả đã bộc lộ những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp, khát vọng sống còn của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến những thứ tình cảm giữa con người với con người như tình thân, tình yêu, tình đồng loại,… thứ không bao giờ bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ đã tiếp thêm cho con người sức mạnh để tiến về phía trước.

——————HẾT———————-

 

Tìm hiểu chi tiết về truyện Vợ nhặt và khám phá vẻ đẹp của các nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt, bên cạnh bài Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt trên đây, các em có thể củng cố thêm kiến thức văn bản qua việc tìm hiểu: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt, Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt, Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt.
 

  1. Phân Tích Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân, Mẫu Số 2:

Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến cho nhân dân ta rơi vào tình cảnh vô cùng thê thảm. Tình cảnh ấy được các nhà văn tái hiện chân thực trong những sáng tác của mình. Nhà văn Kim Lân cũng là một trong số đó. Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân qua tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một lòng thương cảm sâu sắc.

Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được ông viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến năm 1954, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện tố cáo tội ác diệt chủng của bọn thực dân, phát xít đồng thời cũng khẳng định niềm khát khao hạnh phúc cùng niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động vào sự sống và tương lai phía trước.

Tác phẩm có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”? 
Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngộc nghệch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngộc nghệch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.

Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.

Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ – mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lí chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả. 

Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo ú ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi giọt nước mắt tủi hờn. Chính bà là người truyền niềm tin, sức sống mới cho đôi vợ chồng trẻ. Sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã trở thành ánh sáng, trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con.
Bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt. Đây là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Ngay cả một cái tên riêng người phụ nữ ấy cũng không có được. Nhân vật này được tác giả gọi là “thị”, một đại từ nhân xưng chỉ chung những người phụ nữ khác cũng như ngầm chỉ số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa ngoại hình của thị bằng tất cả nỗi xót xa của người trong cuộc. Thị “rách quá”, “cái ngực gầy lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến anh cu Tràng không nhận ra. Thị không có việc làm, ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!” mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là duyên cớ để hai người gắn kết cuộc đời mình với nhau.

Ở con người thị có chút gì “chao chát chỏng lỏn” khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng. Thị quên cả ý tứ cần có của người phụ nữ để “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” rồi “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Tuy “sưng sỉa” là vậy nhưng ẩn sâu trong người vợ nhặt là vẻ đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Thị chỉ theo anh cu Tràng về nhà khi biết anh chưa có vợ. Trên đường đi về, thị rón rén, e thẹn, thị ngượng ngịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Khi về đến nhà Tràng, thị cũng chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và lễ phép cất tiếng chào bà cụ Tứ. Thị có những sự bỡ ngỡ của nàng dâu mới khi về nhà chồng. Đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị có sự thất vọng nhưng cũng chỉ “nén một tiếng thở dài”.
Người vợ nhặt đã có sự thay đổi lớn vào sáng hôm sau. Thị “hiền hậu đúng mực”, thị cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại nhà cửa và sửa soạn bữa cơm đầu tiên đánh dấu cuộc đời làm dâu của mình. Dù món chè khoán có đắng chát thì thị “vẫn điềm nhiên đưa vào miệng” mà không một lời than vãn. Thị chấp nhận cuộc sống nghèo khổ ấy. Niềm tin vào cuộc sống đã khiến thị theo không anh cu Tràng về làm vợ. Nhờ có anh cu Tràng và bà cụ Tứ mà cuộc đời thị được cứu giúp.

Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm bộc lộ niềm thương cảm, xót xa đối với cuộc sống con người, đồng thời cũng lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Chính vì hoàn cảnh đói khát ấy mà tác giả đã xây dựng nên một tình huống truyện éo le, độc đáo. Kim Lân đã nâng niu, trân trọng khát vọng sống của con người. Nếu anh cu Tràng khao khát hạnh phúc gia đình thì người vợ nhặt lại khao khát được sống. Bà cụ Tứ tuy đã già nhưng lại có niềm tin và nghị lực sống mãnh liệt, trở thành điểm sáng trong tác phẩm. Giá trị nhân đạo của tác phẩm của còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc về nhân phẩm, lòng nhân hậu của con người, tiêu biểu là nhân vật anh cu Tràng và bà cụ Tứ. Dù đối mặt với nạn đói, với ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết nhưng họ vẫn đùm bọc, cưu mang người cùng cảnh ngộ.

Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam với lối kể chuyện hấp dẫn cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật khá tinh tế. Trải qua hơn một nửa thế kỉ nhưng “Vợ nhặt” vẫn giữ một vị trí nhất định trong nền văn học dân tộc và tạo được những ấn tượng riêng trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

 

  1. Phân Tích Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Kim Lân, Mẫu Số 3: (Chuẩn):

Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò mới mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng như thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi vãi ở dưới đất, những vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy lại được gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác giả đối với nhân vật của mình bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng mà người phụ nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn  được thể hiện thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện chính là thứ nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình huống truyện là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm, qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong không gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật chính của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết”. Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng lại có tính thương người, luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hi vọng vào một tương lai tươi sáng.

 Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện ngay ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có một cái tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó cũng là tên của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế nhưng lại được hóa công gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái phần tự nhiên, hoang dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối tượng bông đùa của những đứa trẻ xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngộc nghệch”. Hoàn cảnh sống của Tràng cũng chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.

Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy. Tuy Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngộc nghệch thế nhưng ẩn sâu trong tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là người nhân hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã cho ăn “một chặp bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người ta quá đói. Đó là một việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế, Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người còn đói khát hơn cả mình. Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát khao hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình: “Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.

Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất “phớn phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng niềm vui của Tràng đã lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui, “có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc, Tràng dường như quên hết cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”. “Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính là hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát. Đêm buông xuống, hạnh phúc của vợ chồng Tràng được bao bọc bởi bóng tối, bởi âm thanh tiếng hờn khóc tỉ tê từ những gia đình có người chết đói. Tràng vẫn cảm thấy sự kiện mình có vợ là quan trọng và cần nâng niu hơn cái đói đang hoành hành. Nhà có thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên cho sáng sủa, để xua tan đi cái tối, cái thê thảm của của những kiếp người leo lét. Ngọn đèn dầu sáng lên chính là hiện thân cho khát vọng sống, là ánh sáng để đấu tranh với bóng tối, giữ gìn sự sống để đấu tranh với cái chết. Phải chăng, tình yêu là vũ khí lợi hại để có thể khiến Tràng thay đổi hoàn toàn vào buổi sáng ngày hôm sau. Trước đây, Tràng sống dường như không quan tâm đến mình, sống tạm bợ cho qua ngày, không có ý thức chuẩn bị cho ngày mai. Kể từ khi có vợ, tâm lí anh khác hẳn: “Cảnh tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn thật thấm thía và cảm động”. Tất cả được Tràng nhìn bằng ánh sáng mới, bằng con mắt mới, bằng trái tim của một con người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã đem đến cho Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người từ khi có vợ”.

Trước đây, anh vô tâm vô tính, giờ có ý thức về bổn phận của mình hơn, mình cần có trách nhiệm với gia đình này. Hình ảnh của Tràng trong ngôi nhà đầm ấm, hòa hợp khiến cho ai cũng thay đổi. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, người vợ nhặt đúng mực người vợ hiền, dâu thảo, Tràng đã nên người và làm nổi bật vẻ đẹp của hạnh phúc. Dù hiện tại có đói khổ nhưng Tràng vẫn luôn giữ một niềm lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong bữa ăn, chỉ có mỗi nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã để cho nhân vật bàn tán về việc Việt minh phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Trong tâm trí Tràng lúc bấy giờ hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ cỏ sao vàng đang phấp phới tung bay trên nền trời xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến niềm vui, niềm tin đổi đời vào cách mạng. Tràng có cảm giác nuối tiếc khi mình tránh đi con đường khác, ý thức hối hận khi không hòa mình vào đám người đói theo Việt minh, điều đó cho thấy ước mơ vươn lên để đổi đời gắn liền với khát vọng sống của người nông dân Việt Nam đương thời.

Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người.

Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên, được gọi là “thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái quát ngày càng rộng. Ta hiểu thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn người đàn bà cùng rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Về lai lịch, gốc gác, người đàn bà cũng chẳng được giới thiệu cụ thể, cũng chẳng ai biết thị đến từ đâu, chỉ biết rằng chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì gọi đến thì làm”. Người vợ nhặt không có quê hương, không có quá khứ, là hiện  thân cho một kiếp người lênh đênh, trôi dạt trong thảm họa đói khát, không lưu giữ được một chút gì về sự tồn tại của bản thân mình.

Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp thứ hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay trông thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trông rất tiều tụy, thị là hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu thực”, “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết miêu tả ngoại hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người phụ này đã phải chịu đói nhiều ngày, sự đói khát cùng đường làm cho chị mất hết đi nét nữ tính vốn có. Điệu bộ thị “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè nhưng vì đói chị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không hề quen biết. Thị đùa giỡn với anh, liếc mắt cười tít để tạo thiện cảm với Tràng, như vậy có thể nói là vô duyên, trơ trẽn nhưng chị vẫn đẩy xe cho Tràng và chưa được ăn “cơm trắng với giò” như lời Tràng đã hứa.

Lần khác gặp lại Tràng, chị xưng xỉa trách móc “điêu, người thế mà điêu” làm cho Tràng không hiểu gì cả. Những lời thoại ấy đã chứng tỏ người phụ nữ đã cố ý lái câu chuyện để thể hiện mục đích được ăn cơm. Phải chăng sự đói khát đường cùng đã khiến chị thành kẻ táo tợn, trơ trẽn, không cần giữ danh dự, chỉ biết biến lời nói đùa thành sự thật để được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được Tràng mời ăn, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã thử thách nhân cách của người phụ nữ thật ghê gớm. Nạn đói năm Ất Dậu như một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện, không lo danh dự, nhà văn không sa vào chủ nghĩa tự nhiên, không chê bai giễu cợt nhân vật mà nhà văn muốn ta hiểu một thực tế rằng miếng ăn trong cái đói que quắt nhiều khi thúc bách khiến họ quên đi cả ý tứ, không còn sĩ diện nữa, bản năng sinh tồn đã vượt lên trên tất cả. Liều lĩnh hơn khi chị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ. Vì một câu nói đùa, người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật, thị theo không Tràng về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người đàn ông ấy. Thị đã tự hạ thấp giá trị của mình đến rẻ rúng như những vật không giá trị bị vứt ngoài đường.

Tác phẩm đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ bị cái đói đe dọa, thủ tiêu, tha hóa nhưng trong thị vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp của lòng ham sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ, hiền hậu đúng mực và luôn lạc quan tin tưởng. Người vợ nhặt mang một vẻ đẹp nữ tính dịu dàng đúng mực kể từ khi theo không Tràng về nhà. Trên đường về, có lúc người vợ nhặt đã trách chồng bỏ ra hai hào để mua dầu thắp “hoang nó vừa chứ”. Lời trách móc ấy thể hiện ý thức gia đình, vun vén cuộc sống hôn nhân, bởi vậy, thị đúng là một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà, thị cắp cái thúng e thẹn, bản tính nữ tính đã trở lại. Qua một vài chi tiết miêu tả, ta thấy tâm tình của người phụ nữ này đang dần trở lại. Thị lẳng lặng nén tiếng thở dài khi nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng, đó là thái độ chấp nhận dường như chị nghĩ rằng mình không nên hỏi điều gì nữa. Khi vào đến nhà, thị “ngồi mớm ở mép giường”, đây là tư thế e thẹn, ngại ngùng, có chút rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng trong tình huống bất lợi. Nhà văn thật tinh tế khi miêu tả được cử chỉ người phụ nữ “tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy nghĩ e ngại, xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để thể hiện khát vọng sống, thể hiện bổn phận làm vợ, làm con dâu của mình.

Trong đêm tân hôn, thị có những cử chỉ rất dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử chỉ đó thể hiện rõ tình cảm yêu thương của thị dành cho Tràng. Sáng hôm sau, chị dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang. Chị cùng với bà cụ Tứ “dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ”, người phụ nữ “chao chát chỏng lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Người vợ nhặt là người lạc quan luôn đem đến niềm vui cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.

Khi có mái ấm gia đình, Tràng thực sự thay đổi từ một người đàn ông thô kệch vụng về trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Chị làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc, lá cờ đỏ tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng những khao khát về sự đổi đời. Người “vợ nhặt” đã được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ ấy có rẻ rúng, nhưng thị vẫn rất mực lạc quan, yêu đời.

Để nói về đức hi sinh, yêu thương con vô bờ bến, nhà văn đã phác họa thành công chân dung hình ảnh bà cụ Tứ hiểu biết và rất mực thương con. Người phụ nữ nghèo khổ ấy đã những thay đổi tâm trạng phức tạp khi thấy con mình “nhặt” được vợ. Tâm trạng bà thay đổi từ ngạc nhiên đến vui mừng rồi lo lắng, tủi hổ nhưng cũng vẫn rất lạc quan trước số phận.

Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nghèo khổ. Bà xuất hiện với dáng vẻ lọng khọng, gầy gò, ốm yếu. Cảnh ngộ nom thật đáng thương, bà lão nghèo khổ, già nua lại cô đơn vì chồng và con gái đã ra đi mãi mãi. Đứa con trai lớn tuổi nhưng vì nghèo khổ, thô kệch lại là người dân xóm ngụ cư nên chẳng lấy được vợ. Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương, gia cảnh lại bần hà thuộc hạng cùng đinh trong xóm ngụ cư. Ở cái độ tuổi gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiều, chỉ mong cho con mình nên người và có một cuộc sống hạnh phúc.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã khiến cho diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra phức tạp. Bà ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ vồn vã chào mời khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến giữa sân bà lão sững lại càng ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã không tin rằng con mình lấy được vợ. Bà ngạc nhiên trước cảnh một cô gái lạ xuất hiện trong nhà mình. Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để chứng tỏ bà lão rất ngạc nhiên. Bà tự hỏi “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến nỗi bà không tin vào mắt mình khi thấy người lạ trong nhà “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Trái tim của người mẹ luôn nhạy cảm về chuyện riêng tư của con cái và cả chuyện dựng vợ gả chồng nhưng ở đây, bà cụ Tứ lại ngơ ngác quá lâu vì không tin vào mắt mình.

Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ Tứ đã thể hiện rõ tình huống truyện lạ, éo le, cảm động giữa lúc nạn đói đang hoành hành, những người nghèo khổ như mẹ con bà cụ Tứ đến nuôi thân còn không xong mà Tràng còn dám nuôi thêm một miệng ăn. Tâm trạng ngạc nhiên ấy còn hé lộ thân phận con người trong cuộc sống nghèo đói, bà phải sống trong mặc cảm, không làm tròn bổn phận của người mẹ, không lo được cho con, cũng vì nghèo nên con không lấy được vợ. Có chút ngạc nhiên nhưng bà cũng rất vui mừng khi con mình lấy được vợ. Với gia cảnh nghèo đói thuộc hạng cùng đinh, con trai mình lại là người thô kệch, tính tình thì ngộc nghệch nay bỗng dưng có người theo không con mình về làm vợ nên bà cũng thấy ấm lòng hơn. Người mẹ nghèo ấy rất mực thương con , do vậy bà lại cảm thấy tủi và lo lắng khi nghĩ về tương lai. Khi Tràng có vợ bà cũng rất vui nhưng trong lòng lại trào lên nỗi xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà hiểu ra tình cảnh khốn khổ của con và gia đình mình. Con bà lấy vợ giữa lúc cái đói tràn đến xóm ngụ cư như một hiểm họa. Cuộc sống bấp bênh, khốn khó hơn bao giờ hết, thương con lại thương mình, bà cụ “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”.

Vượt qua mọi nghi lễ thông thường, bà cụ đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình và các con. Bà lo cho các con ở những ngày hiện tại chênh vênh. Lòng bà lão đầy những ám ảnh của quá khứ vẫn nặng trĩu đắng cay. Bà ngửi thấy “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái út đã mất, nghĩ đến cuộc đời cực khổ của mình. Bà lo cho vợ chồng Tràng lấy nhau không biết có qua khỏi nạn đói này không. Tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra vô cùng phức tạp, vừa ai oán xót thương, lo lắng buồn tủi đan xen với những xáo trộn trong lòng. Cũng như nhân vật anh cu Tràng, người “vợ nhặt” bà cụ Tứ cũng luôn vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý nghĩ bà cùng vui với triết lí giản dị sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui giản dị thực tế ấy được xuất phát từ kinh nghiệm của người dân lao động, được đúc rút từ bao đời nay. Suy nghĩ đó được bộc lộ từ ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh khó khăn của bà cụ Tứ. Vì nghĩ như vậy nên bà nói về tương lai, trong buổi sáng ngày hôm sau, bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói về tương lai thiết thực của nhân dân lao động, từ việc nuôi gà và có một cuộc sống yên bình, ấm no.

Sáng ngày hôm sau, người mẹ nghèo ấy đã thắp lên đốm lửa của tình người, của niềm tin và hi vọng qua các hành động cụ thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà cửa, quét dọn sân vườn cho sạch sẽ”, việc làm ấy được xuất phát từ niềm tin, niềm hi vọng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gọn gàng, ngay ngắn thì may mắn sẽ tới”. Bà có một sáng kiến bất ngờ đó là bổ sung một nồi “cháo cám” vào bữa ăn ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ. Người mẹ tươi cười đon đả lặng lẽ khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng trong khóe miệng nhưng bà vẫn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó toát lên tinh thần của người mẹ chấp nhận số phận với niềm vui và niềm hạnh phúc đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo cám” ấy còn là hiện thân của tình thương yêu mà người mẹ dành cho các con. Nhà văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên chất người khi niềm vui, niềm hạnh phúc của họ đang dần bị nguội tắt trước thế lực của cái đói. Chi tiết ấy tái hiện cái đói năm 1945 một cách chân thực nhất, con người phải ăn cả thức ăn của động vật để cầm cự, đấu tranh với cái chết gần kề. Tuy bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc của chiều hôm trước và sáng hôm sau khi con mình dắt người “vợ nhặt” về trình diện với bà nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc một nhân vật có chiều dài cuộc đời và chiều sâu tâm lí với những am hiểu sâu sắc. Bà cụ Tứ chính là điển hình cho hình ảnh người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung và rất mực thương con.

Bằng tài năng của mình với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, nhà văn Kim Lân đã đem đến cho chúng ta một thiên truyện “Vợ nhặt”. Ngay từ nhan đề độc đáo của tác phẩm đã hé lộ cho chúng ta biết một tình huống truyện đầy đặc sắc nhưng lại hết sức éo le. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, Tràng được miêu tả rất thực tế về tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rất sinh động còn bà cụ Tứ thì tâm lí diễn ra phức tạp. Nghệ thuật trần thuật mới mẻ, ngôi kể theo cách truyền thống ở ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật luôn luôn di chuyển, nhà văn đã để cho nhân vật tự dẫn dắt tiến trình của truyện. Giọng điệu hóm hỉnh, đôn hậu. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na. Xuất hiện nhiều chi tiết đặc sắc: Chi tiết “bát bánh đúc” cho thấy sự đói khổ có thể làm thay đổi nhân cách con người. Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của người mẹ và tái hiện sự thật đói khát đến mức chẳng còn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ đỏ sao vàng” tung bay phấp phới cho thấy niềm tin của con người vào cuộc sống, khát vọng có một cuộc sống ấm no và niềm tin vào cách mạng của người nông dân lúc bấy giờ. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã tạo nên một phong cách nghệ thuật riêng biệt của Kim Lân với sở trường truyện ngắn này.

 Qua tác phẩm, ta thấy được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực được thể hiện một cách sâu sắc. Ở giá trị nhân đạo, nhà văn đã dựng lại được bức tranh hiện thực đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhà văn trân trọng và cảm thông trước những số phận bị thảm, trước những ước mơ, những khao khát về hạnh phúc gia đình của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện và khẳng định được vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của tình người trong cơn lốc của sự đói nghèo. Và cuối cùng, nhà văn đã chỉ ra con đường cách mạng cho người nông dân, chỉ có theo cách mạng thì con người mới có thể giành lại được cuộc sống ấm no yên bình. Đối với giá trị hiện thực, nhà văn đã tái hiện được một thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam trước cách mạng. Kim lân đã chọn một sự kiện lịch sử có thật để làm chủ đề cho tác phẩm của mình. Mở đầu tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc tới bối cảnh của một miền quê trong những ngày đói, bóng dáng con người toàn là chết chóc, thê lương, những bóng người “đội chiếu, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Hiện thực cho thấy miền quê đó trong những ngày đói vô cùng xơ xác, heo hút. Những chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan như một nạn dịch. Nhà văn đã phản ánh chân thực số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói. Kim Lân đã hướng ngòi bút vào việc khắc họa số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói qua hình tượng người vợ nhặt. Nhân vật Tràng, bà cụ Tứ là những con người nghèo khổ, đáng thương. Truyện đã phản ánh rõ thảm cảnh của con người trong nạn đói và số phận cùng quẫn của họ trước thảm cảnh. Nhà văn đã phản ánh hiện thực cơ bản đó là lòng người dân hướng tới cách mạng. Dù hiện thực này chỉ nói thoáng qua ở đoạn cuối của tác phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ tới sự thay đổi hiện thực cuộc sống, đó là cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Bằng tất cả tình yêu thương, sự đồng cảm, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thành công trong sự nghiệp làm văn của mình qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã để lại cho chúng ta những bài học về tình yêu thương, đùm bọc giữa những con người cùng chung dòng máu Việt và một tinh thần lạc quan, yêu đời, hướng tới cách mạng. Nhà văn đã ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” quý báu của dân tộc Việt Nam ta. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của đất nước ta hiện nay, thế hệ trẻ chúng ta cần giữ vững quan điểm “hòa nhập nhưng không hòa tan” và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bối cảnh nạn đói năm 1945 qua các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ với một niềm  tin yêu, luôn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.

 

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Ads Blocker Detected!!!

Chúng tôi đã phát hiện ra rằng bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Hãy hỗ trợ chúng tôi bằng cách tắt các trình chặn quảng cáo này.