Top 15 bài phân tích nhân vật Mị hay nhất ( có dàn ý )- Vợ chồng A Phủ

Cùng Cẩm nang 24h.net tìm hiểu 15 bài văn tham khảo phân tích nhân vật Mị hay nhất ( có dàn ý )

Xem thêm:

Đề bài: Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Hướng dẫn giải

– Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.

– Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiếu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.

– Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

1.Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: 

    + Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”

    + Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

    + Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

2.Nạn nhân của những áp bức bất công

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.

– Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.

3.Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

    + Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

    + Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

    + Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do

    + Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày. 

    + Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực. 

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

    + Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

    + Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

    + Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

    + Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi. 

– Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.

– Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

 

Bài văn 

Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Bài văn mẫu 1

Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, giám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.

Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .

Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .

Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.

Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .

Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

Cuộc sống của Mị cứ thể lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.

Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.

Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi.

Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

Sức sống le lói của mi đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một mình chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.

Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.

Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc song của con người Tây Bắc, có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy.

Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khổ.

Bài văn mẫu 2

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc “Vợ chồng Ả Phủ”, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và, đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.

Có thể nói, toàn bộ đoạn trích trong sách “Văn 12” là tất cả những chuỗi ngày cực nhọc mà Mị phải trải qua (kể từ khi cô bước chân vào nhà thông lí Pá Tra, đến khi cô cùng A Phủ trốn thoát. Với một dung lượng truyện ngắn vừa phải, Tô Hoài đã thể hiện rất nghệ thuật, chân thật quá trình chuyển biến của Mị, từ lúc cam chịu thân phận nô lệ của mình, tới khi thức tỉnh, tự giải thoát cởi trói cho A Phủ.

Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: “Ai ở xa về có việc vào nhà thông lí Pa Tra, thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí, xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Gòn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.

Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ nợ “gia truyền” của người nghèo, cô đã phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như thế, bởi hình thức cho vay nặng lãi.

Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”, Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh. Nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm. Ở đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đấy, đổ lên đầu bố già.

Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục nhất đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chỉ là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.

Khi một “nạn nhân” đau khổ, còn hướng tới cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn chút gì đó gọi là phản kháng? Mị cũng có lần như thế, nhưng nó bị triệt tiêu và cô đã dường như phó mặc thân phận mình cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai.

Nhưng, đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà cò lì ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp tro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần một ngọn gió thoảng qua là bùng lên. Tô Hoài dã góp thêm vào truyền thông nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.

Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc sông tính cáhu ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống được mùa. Sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm dài xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…”.

Hoàn cảnh ấy, không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại lực” của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, của khát vọng ham sống. Trong không khí ấy, Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước”.

Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: “MỊ thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đên trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.

Trong khi ấy tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiêng sáo theo sát diễn biến tâm trang nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).

Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa. “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng”. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ.

 Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà.

Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn nhừ sống trong tâm trạng mê say với tiêng sáo ngó kia. Mị như quên mình đang bị trói, Quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khao cuộc sông mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”. Nhưng, thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.

 “Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách (…). Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảnh u mê của Mị có phần trầm trọng hơn. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn; cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đấy, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó trong hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần trong một đoạn văn ngắn. Đấy là đoạn vằn miếu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.

 Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chao ôi nước mắt! Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ của Mị lại lóe lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt dây cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị trang văn. Hành động cửa Mị, tuy không thể đoán trước, nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Bởi, Mị từng nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?

 Nhưng, tính cách. Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu thật chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ, bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội, và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thông lí Pá Tra. Điều đó, hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Đảng cộng sản, F. Angghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng: mạnh mẽ.”

Tuy nhiên, cách kết thúc của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được, bởi Tô Hoài sáng tác thiên truyện này sau Cách mạng tháng Tám. Trước đó không lâu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… đã không thể tìm được một con đường tốt đẹp cho nhân vật của mình. Còn Mị, và nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học Cách mạng, đã tìm ra con đường giải phóng thật sự, biết cách “cởi trói” cho mình trong quá trình đến với Cách mạng. Tô Hoài đã có được một tác phẩm thật ý nghĩa, góp phần vào viện bảo tàng con người Việt Nam tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi Cách mạng đương đại Việt Nam. Điều này chỉ có thể đạt được khi tác phẩm “chín” về nghệ thuật và đứng trên tầm cao tư tưởng.

Gần nửa thế kỷ đã qua, Vợ chồng A Phủ vẫn đứng vững trước thử thách của thời gian và công luận; nó như chứng minh sức sống bất diệt của nghệ thuật. Và tôi muôn lấy câu nói của Sê-đư-rin để kết thúc bài văn này: “Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.

Bài văn mẫu 3

  1. Mở bài

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .

  1. Thân bài

Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952.

Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịc lý và cuốn hút độc giả:

“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .

Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thah hò hẹn của người yêu.

Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí .

Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn taịi vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .

Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.

Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ.

Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.

Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi.

Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô . Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .

Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ . Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận .

Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.

III . Kết bài

Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ.

Bài văn mẫu 4

Có thể nói đóng góp lớn lao cho sự thành công của tập Truỵện ngắn Tây Băc chính là “Vợ chồng A Phủ”. Xét riêng trong truyện này nhân vật giàu ấn tượng nhất , sinh động nhất là Mỵ. Bức chân dung về nhân vật trung tâm của tác phẩm là sự phối hợp của những mảng màu hoàng hôn u ám và bình minh rạng ngời ; của khát vọng sống, khát vọng tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong cái hình xác nô lệ . Phát hiện và sáng tạo nhân vật Mỵ trong truyện, Tô Hoài đã chứng tỏ là cây bút bậc thầy trong việc khám phá những miền sống lẩn khuất trong thẳm sâu con người nơi mảnh đất cuối trời tây Bắc ở thời kỳ đen tối.

  1. Tóm tắt cốt truyện

Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.

A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa.Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.

Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.

  1. Phân tích Hình ảnh Mỵ

2.1. Mỵ và cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra

 * Mỵ – Hình ảnh cô gái Mèo hoàn thiện

Mỵ xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mỵ được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mỵ không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuỏi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất mièn tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu.

Mỵ đồng thời là cô gái chăm làm, một dứa con hiếu thảo, biết xa lánh cái ác và biết trân trọng nâng niu tình yêu của mình, giàu lòng tự trọng. Sức trẻ và sự thánh thiện dồn tụ trong Mỵ, và với nó Mỵ hy vọng đứng vững giữa cuộc đời với khát khao tự do làm chủ cuộc sống. Mỵ tâm sự với cha mình ” con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô để trả nợ cho bố”.

Nhưng số phận “những bông hoa” xinh đẹp và đầy sức sống ấy, ở thời điểm lịch sử này đến chung chịu số phận đau thương – đó là một tất yếu. Tô Hoài đã nhận rõ được cái lo gic nghiệt ngã này và “nàng Kiều” đất miền tây cũng không thoát khổi nỗi đa đoan đoạn trường.

* Mỵ – Hình ảnh người đàn bà nô lệ

Cái đau đớn của số phận Mỵ bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mỵ vay tiền của Pá tra  – số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mỵ đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong! Mỵ trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.

Phản ứng của Mỵ những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mỵ cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác.

Tuy nhiên phản kháng của Mỵ bị chặn đứng, Tô Hoài thêm một lần cho thấy bản lĩnh khai thác các mối liên hệ chi phối nội tâm con người. Kiều hơn một làn quên sinh tránh ô nhục – thoát kiếp đoạn trường. Và nếu Kiều chết, sẽ không còn sự vương vấn nào về món tiền “ba trăm lạng”. Nhưng ở đây, Mỵ xót xa hơn, Mỵ chết – món nợ vẫn còn; và đương nhiên, cha cô phải là người gánh chịu tủi hờn đến hết kiếp. Và  bi kịch xuất hiện, muốn chết mà không thể chết, đây cũng chính là nguyên nhân ý thức cam chịụ xuất hiện trong Mỵ.

Những năm tháng sống Pha Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mỵ xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mỵ bị mài mòn. Trong đầu Mỵ, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mỵ cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.

Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con Thống lý trên thân xác, bản thân Mỵ bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mỵ dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mỵ, cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt: lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mỵ thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thàn quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mỵ không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc mội cô gái có chồng và Mỵ sống song tồn với một ý nghĩ: Mình đã “trình ma” Thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ “thuốc phiện tinh thần” trói chặt đời Mỵ, nô dịch tinh thần cô.

Mỵ bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng. A sử trói Mỵ, dùng bạo lực quyết liệt tách Mỵ ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mỵ là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ản dụ về căn buồng của Mỵ, và với nó, nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.

Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mát Mỵ chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mỵ thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Patra, đã tạo ra những hệ quả ghê ghớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mỵ.

Phần đầu truyện Mỵ chỉ chỉ nói một câu duy nhất còn lại là im lặng khuất phục, nhưng Mỵ cũng đã nuôi ý định tự vẫn. Còn bây giờ, Mỵ không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của nhà văn; bởi khi con người nghĩ về cái chết, tức là còn tha thiết sống cuộc sống, muốn tìm cuộc sống tốt hơn và phủ nhận thực tại. Nhưng khi không buồn nghĩ đến cái chết thì đã là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Lo gic phát triển tâm lý ở Mỵ đã đến cái đỉnh bi kịch ấy. Với cô, thời gian không còn ý nghiã, không còn gợi cảm xúc và hình ảnh cuộc sống chỉ còn là màn sương mờ đục. không quá khứ hiện tại. Nhưng ghê gớm hơn cả là sự tàn bạo đã làm cho Mỵ mất mát điều lớn nhất đó là: đánh mất tình đồng loại. Cô gái có trái tim nhạy cảm ngày xưa bây giờ hóa đá, chính bởi vậy ,trước cái chết đang ập xuóng đầu A Phủ mà Mỵ vẫn bình thản, đó là thái độ tàn nhẫn không thể có ở con người.

Toàn bộ những tình tiết truyện đen tối, vây bủa Mỵ, có sức gợi rất mạnh về bối cảnh xã hội phong kiến và thần quyền miền núi. Đó là bản cảo trạng về sự tước đoạt quyền sống của những con người lương thiện vô tội đến triệt để mà Mỵ là nhân chứng. Tội phạm tạo lên bi kịch đó là cha ccon Thống lí và xã hội miền núi đen tối một thời. Và hình ảnh Mỵ cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ nơi miền đất núi rừng âm u tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là hành trình dưới roi vọt cường quyền, trong cái nhà tù oi ngạt khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi.

2.2. Hình ảnh Mỵ với sức sống tiểm ẩn và sự trỗi dậy mãnh liệt

Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính ấy. Bởi thế,  Mỵ cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế của thế giới bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.

* Sức sống tiềm tàng mãnh liệt

Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là, song tồn với cuộc sống đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ản trong Mỵ. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.

Phản ánh sức trỗi dậy của Mỵ, Tô Hoài xây dựng một hoàn cảnh điển hình làm bối cảnh hồi sinh của tâm hồn cô gái Mèo nô lệ. Đây là một dụng công tinh tế, nhờ nó mà trước hết bản năng con người tự nhiên được trỗi dậy. Thiên nhiên chuyển mùa và những vang động của cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu góc khuất của tâm hồn bị băng giá đóng cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự băng giá ấy rã dần. Hình ảnh mùa xuân về trên vùng núi cao, trong chuyện thật tươi đẹp với sắc màu sinh động: “váy hoa đem phơi trên đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuóc phiện nở trắng đồi màu đỏ hoa, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Bên sắc màu là âm thanh, là tiếng cuộc sống rộn rã; tiếng trẻ cười chơi quay và tiếng sáo gọi bạn tình…Nhà văn dường như đã đến “gõ cửa” tâm hồn nhân vật tái hiện cái khoảnh khắc ngày chuẩn bị đón xuân, tạo vật và con người bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy tác động vào tâm hồn Mỵ. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo u ám ấy, dù không nhìn thấy sắc màu, nhưng âm thanh tiếng sáo lay động Mỵ làm cho cô bừng thức. Chi tiết tiếng sáo được chọn làm đối tượng tác động lay thức Mỵ là sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài, bởi chỉ có âm thanh mới thực sự xuyên được những bức tường dày, những cánh cửa khép, để rồi tưới lên, thúc gọi trái tim cô quạnh héo úa làm cho nó hồi sinh. Và cũng bởi tiếng sáo ấy gắn liền thời quá khứ mộng mơ của Mỵ mà sự thăng hoa nhất ngọt ngào nhất là tiếng gọi của mối tình đầu.

Chính nhờ nó, niềm u mê tăm tối, nỗi lung linh hồn Mỵ lạc lối đã được đánh thức. Mỵ vươt ra khỏi tâm trạng thờ ơ của mình bấy lâu nay, tâm hồn cô trở về với đời sống thực tiến , trong óc cô tái hiện kỷ niệm đẹp của một thời con gái: uống rượu chơi xuân, nhịp sáo tình yêu dìu dặt… Mỵ đã vượt tình trạng “sống thực vật”, phí thời gian và bắt đầu sống với những niềm vui chỉ trong chốc lát. Trong khoảng sống trở lại ấy lần đầu tiên Mỵ có hành động , phản ứng đầu tiên là ý nghĩ muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mỵ sẽ ăn cho chết ngay”. Phản ứng ấy khẳng định rằng, Mỵ đã thực sự sồng lại, lý trí sáng suốt đã phân tích cho Mỵ hiểu rằng hoàn cảnh sống thực tại  là vô cùng đau xót tủi hờn.

Nhưng tiếng sáo (trong hoàn cảnh điển hình được xây dựng) vẫn thôi thúc quyến rũ ” tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lơ lửng bay ngoài đường” tác động vào con người hồi sinh của Mỵ, và mạnh hơn, nó xâm nhập vào trong tâm hồn và lý trí của cô tồn taị và sống trong đó, thôi thúc day dứt “trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo khơi gợi sức sống như những đợt sóng ào ạt, những sục sôi trong miền khuất lấp đã trỗi dậy thành hành động: “Mỵ đến góc nhà lấy ống mỡ xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Xây dựng nhiều hình ảnh trong đoạn truyện này, nhà văn đã biểu đạt được hành động thức tỉnh của nhân vật. Mỵ thắp đèn lên soi rọi vào chính cõi u mê của mình, thoát khỏi đêm tối triền miên của quá khứ, thay đổi cái không gian lúc nào cũng bàng bạc như hoàng hôn mà Mỵ lâu nay vẫn tồn tại. Mỵ đã tự hành động như một con người tự do, tự đi theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút váy hoa … sửa soạn chơi tết. Đoạn truyện toát lên một tinh thần nhân văn cao đẹp, Tô Hoài đã gửi đến thông điệp, con người dù cùng cực và bị nhấn chìm trong đen tối đến mấy, thì trước sau vẫn là con người. Vấn đề đặt ra là cái gì, bối cảnh nào sẽ nâng họ dậy và đỡ họ trở lại với nhịp cuộc đời.

Giữa lúc lòng ham sống vừa xuất hiện, thì Asử đến cùng với những sợi dây trói. Động tác trói vợ của Asử rất thản nhiên, rành rẽ. Một hành động trong bối cảnh cụ thể của truyện, gợi cảm nhận sự tàn ác đến lạnh lùng của thế giới bạo tàn không còn lương tri. Nhưng cái chính là cái tàn nhẫn ấy càng làm khát vọng của con người trở lên mãnh liệt, một khi họ đã vượt qua cái chết, sự quằn quại đau đớn và đã hồi sinh. Mỵ bị trói, nhưng tiết tấu của cuộc sống vẫn gọi thiết tha ” tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi … Mỵ vùng bước đi”. Đoạn văn đã miêu tả thành công cuộc giằng xé quyết liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn lạnh lùng. Xét phương diện tinh thần thì Mỵ đã thắng; khát vọng của Mỵ trào ra khỏi, “Bung phá” những sợi dây trói khắc nghiệt vô tình. Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mỵ tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là ý nghĩ cay đắng “Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”; và như vây cuộc vùng dậy làn thứ nhất của Mỵ thất bại, sự quẫy đạp  vươn dậy không đủ sức mạnh dể thay đổi số phận.

* Hành động tự giải phóng

Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mỵ là đêm Mỵ quyết định cứu Aphủ. Khởi đầu là tâm trang lạnh lùng thản nhiên của Mỵ khi nhìn Aphủ bị trói đứng ” Mỵ thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu Aphủ là cái xác chêt đứng đấy cũng thế thôi”. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm, nhưng nước mát Aphủ đã đánh thức trái tim Mỵ. Thoát ra khỏi vô cảm, My sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương tích của chính cô: Mỵ nhớ lại Asử trói Mỵ; Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu ” trờì ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết “. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà Thống lý, Mỵ mới bật kêu được thành tiếng con người. Mỵ đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh lấn át nỗi thương thân. Lòng nhân hậu trong Mỵ đã hồi sinh, và chính nó trở thành động lực giúp Mỵ chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mỵ rút dao cắt dây cứu A Phủ. Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực đã kích thích hành động tiếp theo Mỵ chạy theo Aphủ, với lời giải thích ngắn gọn “ở đây thì chết mất”. Mỵ đã trở về là Mỵ tư cách là con người và trưởng thành về nhận thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành động chạy trốn của Mỵ là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mỵ tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát

  1. Đánh giá chung.

Nhân vật trung tâm Mỵ được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc. Trang viết về Mỵ ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh vi trong con người Mỵ. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mỵ hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách khác Mỵ hiện lên troing truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lý và lo gic.

Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghiã quyết định đời Mỵ và mở ra cuộc sống mới. Ở đó, Mỵ và Aphủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng xa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mỵ từ trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động giải phóng (Cứu A Phủ và cứu mình) là hành đông tự phát, và nó trở thành phát trỉiển tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa nhân vật Mỵ với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) hay Vũ Nương (Người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ)… ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.

Bài văn mẫu 5

Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.

Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.

Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.

Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.

Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.

Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.

Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.

Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.

Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.

Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.

Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.

Tóm tắt tác phẩm văn xuôi là một trong số những kĩ năng quan trọng và cơ bản khi bạn tiếp cận với văn bản, vậy với yêu cầu Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, bạn đã chọn những chi tiết truyện tiêu biểu nào để giúp bài tóm tắt của mình đầy đủ, hàm súc và chặt chẽ, giúp người khác có thể hiểu khái quát nhất nội dung mà không cần phải đọc cả tác phẩm?

Bài văn mẫu 6

Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.

Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó.

Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống Lý đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.

Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.

Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lý Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.

Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.

Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có.

Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.

Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.

Chi tiết Mị cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

Bài văn mẫu 7

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”…

Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.

Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị.

Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”.

Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không?

Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm.

Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”.

Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh.

Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh.

Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị.

Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.

Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”.

Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra.

Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.

Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền.

Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc.

Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.

Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”.

Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này.

Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn.

Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có.

Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người.

Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này.

Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ

Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú.

Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?

Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”.

Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu.

Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn.

Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

Bài văn mẫu 8

Tô Hoài là một trong những nhà văn đạt được nhiều thành công trong nền văn xuôi hiện đại của Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài luôn được lấy cảm hứng từ những vấn đề gần gũi và thân quen nhất trong cuộc sống sinh hoạt thường nhật. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm thể hiện cuộc sống và con người của vùng Tây Bắc một cách vô cùng sâu sắc. Qua việc xây dựng nhân vật Mị – nhân vật chính của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, tác giả như muốn thể hiện sự khâm phục của mình đối với tinh thần cùng sức sống mãnh liệt của đồng bào vùng cao Tây Bắc.

Ở ngay đầu câu chuyện, nhân vật Mị hiện lên qua cách giới thiệu của tác giả gợi cho người đọc một sự tò mò và vô cùng hứng thú với người con của núi rừng Tây Bắc này. Chỉ bằng những câu chữ vô cùng cô đọng, tác giả đã giúp người đọc hình dung một cách cụ thể về cuộc sống ngập tràn đau khổ của Mị tại nhà Pá Tra.

Hình ảnh một người con gái với ánh mắt và vẻ mặt vô hồn, thiếu sức sống bên cạnh quay sợi, tảng đá, tàu ngựa, cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế và giàu có nhất vùng như lúc nào cũng “buồn rười rượi” là hình ảnh chân thực nhất về một số phận bất hạnh, đau khổ. Mị được rất nhiều chàng trai yêu thương và cô cũng đã trao gửi tình yêu của mình cho một chàng trai làng chân chất thật thà.

Nhưng cuộc sống may mắn, hạnh phúc không đến với Mị, cô gái xinh đẹp và tài hoa đó lại phải chịu một cuộc sống vô cùng đau khổ khi phải bán mình, chịu cảnh làm con dâu gạt nợ trong nhà Thống lí Pá Tra để trả nợ cũ cho cha. Mặc dù sống dưới danh nghĩa là con dâu của một gia đình quyền quý, song, mọi cùng cực của một kẻ tôi tớ Mị đều phải gánh chịu hết khi về làm dâu ở đây. Thân phận của Mị trong nhà Pá Tra không khác gì thân trâu ngựa.

Ngoài nỗi dày vò về thể xác, Mị còn bị đày đọa về tinh thần và dường như không có lối thoát. Một cô gái còn trẻ, mới ngày nào còn khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt thì nay chỉ biết lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh Mị chỉ biết ngồi trong một căn buồng kín mít với cái cửa sổ có lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra ngoài và lúc nào cũng thấy mờ mờ, không biết là sương hay là nắng là hình ảnh thể hiện rõ nhất cuộc sống bị dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần của Mị. Căn buồng đó giống như một phòng giam, không những giam hãm thể xác của một cô gái trẻ, mà nó còn cách li tâm hồn cô với cuộc đời tươi đẹp ngoài kia, kìm hãm tuổi xuân và sức sống của một cô gái trẻ tuổi đời còn phơi phới sắc xuân. Đây như một lời tố cáo về chế độ phong kiến vùng núi rừng Tây Bắc, bởi chế độ đó là làm cạn khô nhựa sống, làm lụi tàn đi ngọn lửa  niềm vui sống của những người trẻ, những người lao động chân chất nơi đây.

Sự đau khổ khi làm thân trâu ngựa ở nhà Pá Tra khiến Mị chỉ muốn tìm sự giải thoát bằng con đường kết thúc sự sống, tuy nhiên, lòng hiếu thảo, tình yêu thương cha vô bờ bến đã níu kéo cô lại với cuộc sống. Khi cha mất đi, thì Mị chỉ như đang tồn tại, buông xuôi và sống như một đồ vật không có cảm xúc. Khi Mị muốn tìm đến cái chết, nghĩa là Mi vẫn còn muốn chống đối lại với cái cuộc sống vô nghĩa, sống không ra sống này, điều đó nghĩa là cô gái vẫn còn thiết tha với cuộc sống đúng nghĩa. Nhưng khi đã buông xuôi, không thiết chống lại bất cứ thứ gì nữa, thì nghĩa là dù cho Mị có làm gì, có đi lên nương hay đi cắt cỏ… thì cũng chỉ như đang tồn tại với cái xác không hồn mà thôi.

Mị cứ lầm lũi tồn tại như vậy từ ngày này qua tháng khác, tưởng chừng như con người thật sự của cô đã hoàn toàn chết đi. Nhưng không, niềm khao khát sống mãnh liệt của Mị vẫn còn đó. Đau khổ có thể khiến trái tim cô tổn thương, tâm hồn cô chai sạn, làm vùi lấp đi niềm tin vào cuộc sống nhưng niềm tin đó vẫn tồn tại và không thể nào tiêu tan. Khi điều kiện thuận lợi đến, niềm tin đó sẽ có cơ hội cháy lên. Và đêm tình mùa xuân hôm đó chính là chất xúc tác mạnh mẽ thổi bùng lên niềm khao khát sống mãnh liệt của Mị.

Không khi đêm xuân với gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự thay đổi màu sắc một cách kì diệu của các loài hoa đẹp đã làm nên một sự dậy sóng mãnh liệt trong tâm hồn Mị – một tâm hồn đã tê dại vì đau khổ trong suốt một thời gian dài. Tác nhân quan trọng khiến cho làn sóng trong tâm hồn Mị mãnh liệt đến vậy chính là men rượu. Say men rượu vừa khiến Mị lãng quên thực tại đau khổ và nhớ về những kí ức tươi đẹp thời còn là một cô gái tươi vui, ham sống, yêu đời và mê thổi sáo. Và quan trọng nhất đó là hơi rượu khiến cho Mị nhớ rằng, cô vẫn là một con người, cô có quyền sống và sống hạnh phúc giống như biết bao con người bình thường khác “Mị vẫn còn trẻ….Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

Ngay chính lúc đang đấu tranh nội tâm dữ dội, thì Mị nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo lúc này có ý nghĩa thật to lớn, nó như tiếng gọi của mùa xuân, tiếng gọi của tuổi trẻ và của tình yêu. Đây cũng giống như tiếng lòng thiêng liêng của người con gái vùng cao Tây Bắc, là tiếng cảm thán của người con gái được đánh thức sức sống tiềm tàng tưởng chừng như đã chết từ lâu. Cho nên đây là thời khắc cho thấy lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng thì phơi phới trước cảnh vật và âm thanh của đêm xuân, nhưng chân thì vẫn bước vào buồng theo quán tính, ngồi xuống giường và trông ra ô vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy, thì ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong Mị là được chết ngay lúc này bởi đây là cuộc sống giống như cầm tù, sống không bằng chết.

Nhưng lúc đó, không khí náo nhiệt của mùa xuân gần như đã xâm chiếm toàn bộ tâm hồn Mị, Mị như chìm hoàn toàn vào trong ảo giác “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi”. Và ngay lúc đó, Mị mới thực sự có hành động nhất quán với suy nghĩ, đó là quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rút thêm cái áo… tất cả đều được Mị làm như người bị mộng du, như một giấc mơ.

Cũng chính vì hành động như kẻ chìm vào giấc mơ cho nên Mị không ý thức được A Sử đang bước vào cũng như hoàn toàn không nghe thấy những gì mà A Sử hỏi. Mị vẫn chưa trở về với thực tại, vẫn chìm trong những giấc mơ về một thời xuân trẻ, bồng bềnh trôi trong cảm giác du xuân ngay cả khi bị A Sử trói vào cột. Sợi dây trói mà A Sử siết chặt lên người Mị vẫn chưa thể làm cô gái trở về với thực tại tàn khốc. Mị chỉ thực sự trở về với thực tại khi muốn bước chân theo tiếng sáo nhưng lại cảm thấy chân tay đau không sao cựa được. Và lúc này, Mị lại chập chờn giữa mơ và tỉnh, mơ trong tiếng sáo như thúc giục cô gái thoát ra khỏi cuộc sống đầy đau thương này, tỉnh trong sự đau đớn và tê dại của dây trói không những trói chặt thể xác mà còn giam cầm cả tâm hồn Mị.

Sức sống le lói trong Mị bùng phát hẳn lên thành hành động và nó thể hiện qua việc dứt khoát cởi trói cho A Phủ. Có số phận giống như Mị, A Phủ cũng là một nạn nhân của chế độ phong kiến hà khắc ở vùng núi Tây Bắc. Vì không may xảy ra xô xát với A Sử – con trai Thống lí Pá Tra mà A Sử cũng phải chịu đựng thân phận con ở gạt nợ. Lòng bất khuất, tinh thần khảng khái của người con sinh ra từ núi rừng không cho phép A Phủ chịu khuất phục trước cường hào, điều này đã đẩy A Phủ vào tình cảnh hết sức khốn cùng đó là bị trói đứng. Và hoàn cảnh bi thương của A Phủ đã đánh thức cũng như khơi dậy sự thương cảm trong tâm hồn Mị. Mặc dù mấy hôm đầu Mị vô cảm và thờ ơ trước hiện thực bi thương của A Phủ: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Điều khiến cho tâm hồn Mị có những thay đổi mang tính bước ngoặt đó là khi Mị thấy những dòng nước mắt của chàng trai A Phủ. Chính những giọt nước mắt đó đã đưa Mị trở về với những kí ức khi chính Mị bị chói, và nhờ đó, Mị xót thương cho chính mình, xót thương cho cả A Phủ.

Dòng nước mắt lúc này đã làm thức tỉnh Mị, Mị nhận thức được những đau khổ mà chính mình cũng như A Phủ phải gánh chịu trong nhà Pá Tra. Sự tỉnh táo thôi thúc Mị hành động, Mị cởi trói cho A Phủ. Và ngay sau khi cởi trói cho người cùng cảnh ngộ, lòng ham sống được thổi bùng lên trong Mị, và điều đó được thể hiện rõ nét qua hành động bất ngờ chạy theo A Phủ.

Chính nhờ có sự trải nghiệm thực tế về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc, tác giả mới có thể tố cáo thế lực phong kiến áp bức, bóc lột, chà đạp lên quyền sống cơ bản của con người một cách chân thực như vậy. Và cũng qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị, tác giả Tô Hoài đồng thời ca ngợi khát vọng sống, khát vọng tự do hết sức mãnh liệt của những con người nghèo khổ dưới ách thống trị của cường hào phong kiến. Và qua đây tác giả cũng muốn ca ngợi tình đoàn kết, tinh thần giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng khổ, đây chính là tính giai cấp, tinh thần dân tộc đáng tự hào của người Việt từ bao đời nay.

Bài làm 9

Như con ong hút ngàn vạn nhụy hoa mới tạo thành mật ngọt,con trai chịu bao đau đớn xót lòng vì hạt bụi bặm biển khơi mới làm nên viên ngọc trai “tròn trặn ánh ngời”, hành trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ cũng đầy gian nan và cực trải như thế. Lăn lộn giữa cuộc đời suốt mấy mươi năm, bước chân Tô Hoài từng đi qua bao ngóc ngách thế gian, trái tim Tô Hoài từng rung cảm trước bao cảnh đời, và Tây Bắc chính là một trong những nơi khiến người nghệ sĩ ấy phải dừng chân, lưu tâm và chấp bút.

Khi rời khỏi Tây Bắc, Tô Hoài từng tâm sự: “Người Tây Bắc để nhớ để thương cho tôi nhiều quá”. Có lẽ Vợ chồng A Phủ chính là món quà đặc biệt Tô Hoài gửi lại cho đồng bào vùng cao thay cho lời tạm biệt của mình. Trong một lần nói về Tô Hoài, Tế Hanh có lời chia sẻ: “Nếu có những người như Picasso sinh ra để vẽ, thì ở một mức nào đó, cũng có thể nói Tô Hoài sinh ra để viết”.

Quả thực, Tô Hoài đã cống hiến gần trọn đời mình cho nghiệp viết. Bao nhiêu vốn sống, bao nhiêu kinh nghiệm, một lần nữa Tô Hoài lại gửi vào thiên truyện về vùng cao. Đến với Vợ chồng A Phủ không chỉ là đến với một Tây Bắc thơ mộng trữ tình – mảnh đất vốn vẫn còn xa lạ với làng văn, mà còn là đến với con người nơi đây để hiểu thêm và đồng cảm thêm với số phận của họ, cũng là để để nâng niu thêm vẻ đẹp trong họ. Nhân vật chính của truyện – Mị – con dâu nhà thống lí Pá Tra – đã nói thay Tô Hoài những điều ông gửi gắm…

Ngay mở đầu truyện, Tô Hoài đã bắt đầu bằng cái nhịp trầm buồn tựa như nhịp vào truyện của những câu chuyện cổ tích xa xưa: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”

Thế giới Tây Bắc hiện ra, xa xăm kì diệu, với chân dung một thiếu phụ buồn như một ẩn số. Thấp thoáng bóng dáng của cô Tấm bước vào trang truyện với bao cực lòng, của những người phụ nữ xưa đời đời lặng im chẳng cất lên tiếng nói. “Mị là ai ? Vì sao cô ấy buồn một cách câm lặng đến thế?”, người ta cứ băn khoăn và tự hỏi như thế. Cho đến khi tìm thấy câu trả lời ở những khúc đoạn sau…

Mị trước khi về nhà thống lí vốn là một cô gái xinh đẹp như bông hoa hàm tiếu của núi rừng Tây Bắc. Đời người con gái miền sơn cước ấy trong trẻo, tinh khôi, tâm hồn phong phú và ngập tràn khát vọng tự do. Mị cũng từng yêu và được yêu. “Trai trong làng đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”.

Từng có bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.Vốn tưởng những khát vọng tuổi trẻ sẽ cho Mị một cuộc đời sung sướng, nhưng món nợ truyền kiếp của gia đình đè lên vai đã vô tình dồn đẩy Mị vào bi kịch. “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Ở câu nói ấy, Mị không chỉ cho ta thấy lòng hiếu thảo của một đứa con thương cha, mà còn bộc lộ lòng tự trọng của một người có ý thức sâu sắc về quyền sống, quyền tự do. Nhưng đau xót thay, những hủ tục phong kiến của bọn chúa đất miền núi đã không cho Mị được sống như một con người. Bi kịch tìm đến kể từ cái đêm Mị bị A Sử đến cướp đi, bao nhiêu nghiệt ngã cũng từ đó…

Về làm dâu nhà thống lí, Mị không được sống đúng với tư cách là một người con dâu, mà sống như một con ở, một nô lệ, một công cụ lao động, bị áp chế bởi cường quyền, thần quyền và bạo ngược, bị chà đạp cả thể xác và tinh thần. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Từng có lúc Mị tìm đến lá ngón tự tử, nhưng vì thương cha, Mị cầm lòng và nhẫn nhục.

Thế rồi “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết, Mị không tưởng đến mình có thể ăn lá ngón mà tự tử được nữa”. Khi muốn chết nghĩa là còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thích sống. Còn khi đã không thiết chết, có nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng đã không còn. Bao nhiêu công việc lớn nhỏ của cái gia đình ấy, Mị quần quật làm trong cam chịu.

Triền miên công việc từ ngày này qua tháng khác cứ hiện ra và đè nặng lên đôi vai bé nhỏ: Từ giặt đay, xe đay, chẻ củi, bung ngô, thái cỏ ngựa, hay đi cõng nước dưới khe suối…, chẳng còn việc gì không đến tay Đến nỗi mà, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị nghĩ mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Kiếp con người được vật hóa trong ý thức thì còn gì đau đớn hơn ? Và còn xót xa nữa, khi mà đời sống tinh thần Mị cũng dần bị cầm tù và khóa chặt.

Mị sống trong căn buồng u tối chỉ có một lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Một thứ ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thân xác Mị, nhưng nó cầm cố tuổi xuân và sức sống của Mị, nó cách li Mị với cuộc đời. Mị dần trở nên câm lặng, vô cảm, mất dần ý thức về quyền sống. Đã không còn nghe thấy tiếng nói, tiếng hát, tiếng tâm hồn thổi lên xốn xang mạnh mẽ. Mị bây giờ giống như “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, chẳng biết đâu là ánh sáng của niềm vui và sự tự do nữa. Có những lúc, ta tưởng như Mị đã chết mòn về ý thức…

Nhưng không, ngòi bút của Tô Hoài vẫn đủ niềm tin, trái tim Tô Hoài vẫn đủ yêu thương, nhãn quan Tô Hoài vẫn đủ tinh nhạy để nhìn thấy ở cái “bề sâu, bề sau và bề xa” của hiện thực tăm tối kia là bao vẻ đẹp của một người con gái vẫn luôn ẩn tàng sức sống. Qủa thực, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị là điều khó tưởng, khó thấy, nhưng lại thật dễ hiểu, dễ cảm. Đó là vào cái đêm tình mùa xuân, khi Hồng Ngài tựa như một bức tranh rực lên sức sống trong cả màu sắc và âm thanh.

Màu “vàng ửng” của cỏ gianh trong cái rét thổi dữ dội, màu sặc sỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá xòe”, tiếng rộn ràng xôn xao của những đứa trẻ đánh pao, đánh quay, tiếng thiết tha bổi hổi của tiếng sáo gọi bạn tình. Lạc vào miền không gian ấm cúng và náo nhiệt ấy, ta cũng phần nào cảm được cái hồn Tây Bắc , huống chi là Mị – một người con của vùng cao, thì sao có thể để lòng ngủ yên giữa lúc Hồng Ngài náo nhiệt như thế.

Ngày Tết năm ấy, Mị cũng uống rượu, “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Thứ hơi men chếnh choáng đê mê đã kéo Mị ra khỏi thức tại, đưa Mị trở về quá khứ, vừa quên đi tủi cực phận mình, vừa nhớ về hạnh phúc xa xưa.

Nhưng để ý thức hồi sinh mãnh liệt nhất, thì có lẽ tiếng sáo mới là tác nhân có những ảnh hưởng sâu sắc. Tiếng sáo xuất hiện bốn lần trong truyện, cứ ngân lên theo từng giai âm của tâm hồn. Bắt đầu là tiếng sáo từ xa vọng lại, “thiết tha bổi hổi”, khiến Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi:

Mày có con trai con gái

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

Ca từ mộc mạc, giản dị, hàm chứa lẽ sống phóng khoáng tự do của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã dùi tâm hồn Mị vượt qua cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay như vượt qua cái hàng rào trắng của thực tại để bay bổng trên các triền núi cao. Tiếng sáo gần hơn, khi Mị nghe “văng vẳng” âm thanh gọi bạn đầu làng của nó, cũng là lúc Mị được sống nhiều nhất, thật nhất với lòng mình.

Như giáo sư Đỗ Kim Hồi từng nhận định: “Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã bị chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi, nó sẽ cháy lên từ dưới lớp tro buồn”.

Lòng phơi phới, Mị dần ý thức được về quyền sống, quyền hạnh phúc của mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng rồi vẫn đi chơi, huống chi A Sử với Mị, ở với nhau mà không có lòng với nhau”. Có một sự vượt ngục ở đây chăng? Hay là sức sống kia vẫn luôn tiềm tàng nay mới được đánh thức?

Sự sống dậy trong tâm tâm hồn đã thúc bước Mị hành động, một cách vô thức có ý thức: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn”. Tâm trí Mị đang sống với không khí ngoài kia, “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách”. Những hành động của một con người đã và đang chết dần về ý thức minh chứng cho một trái tim chưa bao giờ hết khát khao. Nó chỉ tạm ngủ yên trong một xã hội nhơ nhuốc chứ chưa bao giờ ngừng đập trong một lồng ngực căng tràn nhựa sống.

Ngay cả khi bị kéo về thực tại với dây trói cột chặt, Mị vẫn thấy hơi rượu nồng nàn, tiếng sáo văng vẳng, sức sống tràn ra ngoài dây trói và xốn xang bao khát vọng. Chỉ là thực tại quá nghiệt ngã đã không cho người con gái ấy được thỏa lòng, nhưng chỉ thế thôi cũng đủ để ta thấy bao khát vọng ẩn tàng, và rồi nó sẽ còn rực cháy…

Đúng thế! Cơn mơ giải thoát ở đêm tình mùa xuân tưởng như đã tiêu tan đến tê dại, nhưng không, Tô Hoài lại một lần nữa nói cho ta rằng sức sống con người là bất diệt. Đó là vào cái đêm đông năm ấy, Mị cởi trói cho A Phủ, cũng là cởi trói cho chính mình. Những diễn biến tâm lí tưởng khó lường mà thật tự nhiên. Vào cái đêm đau khổ nhất trong cuộc đời A Phủ, sau bao ngày bị trói giữa trời, khuôn mặt A Phủ xám xịt, đôi mắt quầng thâm, nỗi lòng tuyệt vọng.

Thế mà trước cảnh tượng ấy, Mị vẫn dửng dưng, lãnh đạm đến vô cảm, vẫn thản nhiên hơ tay sưởi lửa, thâm chí A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Nhưng, chỉ bằng một chi tiết thôi, cái chi tiết mà Tô Hoài gửi vào đó bao dụng ý, đã cứu sống tất cả. “Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” trên gương mặt A Phủ. Nó giống như giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước, nó đưa Mị ra khỏi vực quên để trở về cõi nhớ – nhớ mình cũng từng khổ như thế, nhiều người cũng từng khổ như thế – một sự khổ đau giày nát tâm hồn và tê liệt thể xác mà không sao thoát nổi.

Từ thương mình, Mị biết thương người, tình thương lớn lên thôi thúc Mị hành động, ngay cả khi biết mình có thể bị trói thay vào đó, Mị cũng chẳng thấy sợ. Mị cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ, cũng là cởi trói cho chính mình. Hai con người lao ra từ bóng tối và chạy thẳng về ánh sáng. Ý thức tự đấu tranh để tiến dần về Cách Mạng phải chăng chính là vẻ đẹp mới mẻ mà Tô Hoài đặt niềm tin vào họ?

Sinh thời, Tô Hoài từng tâm niệm: “Mỗi chữ phải như một hạt ngọc buông xuống nhưng trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhất mà mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Ông đã xây dựng thành công nhân vật Mị ngay từ nghệ thuật thể hiện.

Chân dung ngoại hiện đến những bước ngoặt tâm lí đã đủ thấy Tô Hoài từng sống sâu sắc với nơi đây biết bao. Mị chính là một mảnh Tây Bắc sống mãi trong làng văn, sống mãi trong đời văn của người nghệ sĩ mà ta vẫn gọi là “pho từ điển sống” này.

Bài làm 10

Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Mị là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đầy đau khổ, bất hạnh. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị – người con gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài năng. Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ để được sống cuộc đời hạnh phúc song do các thế lực thần quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc đời của cô vô cùng bất hạnh, đáng thương.

Mị là hiện thân cho những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị không thể nghĩ đến bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Không chỉ vậy cô còn bị bóc lột về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức áp chế vô cùng khủng khiếp. Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và tinh thần, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.

Nhưng liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác phù hợp, đúng thời điểm thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn có khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.

Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời điểm này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động tích cực đến tâm hồn Mị. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu không lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết sức bất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc .

Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ cuộc sống hiện tại. Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ sắt một miếng, thắp đèn lên cho sáng. Hành động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hi vọng cho cuộc đời của chính mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và chuẩn bị đi thì Mị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tầm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày trước.

Với diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lí, Mị đã có cuộc nổi loạn đầu tiên, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hi vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh liệt.

Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm Đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị không chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp ấy

Sau cuộc nổi loạn không thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất cứ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động vô cùng mạnh đến tinh thần Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc như vậy. Trong cô bắt đầu xuất hiện sự cảm thương với người xung quanh: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ kẻ thù của mình: “Chúng nó thật độc ác”. Đây là bước đầu tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng.

Mị nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản thân với A Phủ, “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người. Sau cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai – ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô cùng trong tư tưởng, tinh thần đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng thời gian dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong những quá trình tâm lí khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm thương cho số phận bất hạnh của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ ước của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

Bài làm 11

Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,… Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần quyền phong kiến tàn ác. Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định hướng về một cuộc đời khi cách mạng về. Một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.

 Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết. Thành thử, Mị phải chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán nợ, nó khốn nạn lắm, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha. Cuộc sống đau khổ khiến Mị nhiều lần muốn ăn lá ngón để chết quách đi, nhưng Mị lại không chết được, bởi chết rồi thì ai sẽ trả nợ cho cha, rồi dần dà Mị trở nên chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, chỉ biết ăn và làm, không thiết tha bất cứ điều gì khác. Bởi lẽ Mị bị bắt về gán nợ, không chỉ là làm lụng lấy sức lao động để bù đắp, mà Mị đã bị bắt về đã làm lễ trình ma nhà A Sử, cả đời Mị sẽ sống làm người nhà nó, chết cũng là ma nhà nó rồi, Mị đã hoàn toàn không có một lựa chọn nào khác, không có một sự tự do nào nữa. Chết không được thì người ta buộc phải sống, mà sống theo cách của Mị thì nó lại đau đớn quá, Mị sống với một tâm hồn một trái tim như tro tàn nguội lạnh, sống mà đến độ tưởng mình không còn là người nữa, mà chỉ là một cỗ máy lao động có chân tay, biết nói chuyện trong nhà thống lý Pá Tra. Đến nỗi Mị thấy mình đến loài súc sinh chăn trong nhà cũng không bằng bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đọc những dòng văn ấy, người ta đã tưởng đến độ con người phải bị áp bức, bị vắt kiệt bị giam cầm đến mức nào mới có thể có những suy nghĩ đớn đau đến nhường này. Và cái khổ nó đã làm biến dạng cả tâm hồn, ngoại hình Mị, đầu óc cô không nghĩ việc gì khác ngoài những việc làm lụng, dù làm gì cũng cúi mặt, buồn rười rượi, lại ngày càng chẳng nói năng gì, dường như Mị quên đi cả khả năng giao tiếp của mình. Không chỉ thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Rõ ràng là cuộc đời của một người tù chung thân, mà nó cũng chỉ xuất phát từ cái nỗi Mị là đàn bà ở Hồng Ngài, nhà Mị nghèo quá, mà cha Mị lại mắc nợ người ta. Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.

Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ thời cơ nổi dậy. Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống, ham vui, ham hạnh phúc trong Mị. Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế. Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay. Mị uống rượu và thổi sáo, Mị tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi cái sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Có lẽ rằng chính cái âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội. Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ. Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.

 Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia. Thế nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy. Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau khổ hay sao? Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”. Nhìn thấy một kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.

Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.

Bài làm 12

Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Mị là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đầy đau khổ, bất hạnh. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị – người con gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài năng. Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ để được sống cuộc đời hạnh phúc song do các thế lực thần quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc đời của cô vô cùng bất hạnh, đáng thương.

Mị là hiện thân cho những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị không thể nghĩ đến bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Không chỉ vậy cô còn bị bóc lột về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức áp chế vô cùng khủng khiếp. Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và tinh thần, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.

Nhưng liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác phù hợp, đúng thời điểm thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn có khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.

Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời điểm này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động tích cực đến tâm hồn Mị. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu không lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết sức bất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc.

Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ cuộc sống hiện tại. Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ sắt một miếng, thắp đèn lên cho sáng. Hành động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hi vọng cho cuộc đời của chính mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và chuẩn bị đi thì Mị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tầm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày trước.

Với diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lí, Mị đã có cuộc nổi loạn đầu tiên, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hi vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh liệt.

Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm Đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị không chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp ấy

Sau cuộc nổi loạn không thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất cứ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động vô cùng mạnh đến tinh thần Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc như vậy. Trong cô bắt đầu xuất hiện sự cảm thương với người xung quanh: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ kẻ thù của mình: “Chúng nó thật độc ác”. Đây là bước đầu tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng.

Mị nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản thân với A Phủ, “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người. Sau cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai – ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô cùng trong tư tưởng, tinh thần đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng thời gian dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong những quá trình tâm lí khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm thương cho số phận bất hạnh của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ ước của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

Bài làm 13

Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Nhà văn đã kể về những ngày tháng ấy, “cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhờ cho tôi nhiều quá…. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác” (Một số kinh nghiệm viết văn của tôi). Truyện “Vợ chồng A Phủ” đã được ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tác phẩm viết về đồng bào Mèo trong quá trình đấu tranh giành quyền sống tự do, hạnh phúc đã phải nếm trải bao đau thương, tủi nhục, cay đắng. Họ đấu tranh để được giải phóng khi gặp cách mạng. Sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc.

     Đến Tây Bắc, Tô Hoài có thêm những người bạn mới là Mị và A Phủ, và cách kể chuyện sắc sảo của nhà văn, họ đã trở thành những nhân vật văn học sinh động, những số phận được sáng tạo, nâng lên từ cuộc sống. Mị và A Phủ là hai hình tượng có tính sóng đôi, bổ sung cho nhau. Họ có cuộc đời riêng nhưng cùng chung cảnh ngộ. Trong đó, Mị được nhà văn chú ý miêu tả, khắc họa hết sức rõ nét bằng cách khai thác đời sống nội tâm của nhân vật.

     Mị là một cô gái miền núi xinh đẹp và có tài thổi sáo. “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khúc”. Nhiều người say mê Mị “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Nhưng vì nghèo, Mị không có được hạnh phúc như mình mong ước.,về làm dâu để trừ nợ cho cha mẹ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị sống như một kẻ nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời con gái bị vùi dập đau đớn, Mị muốn tự tử nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng chết. Thế là sự phản kháng yếu ớt tuyệt vọng ấy đã tiêu tan.

     Quay trở lại nhà thống lý, người con gái hiếu thảo ấy đành buông xuôi cho số phận theo một quy luật thích nghi nghiệt ngã: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Thậm chí còn khổ hơn cả con trâu con ngựa. “Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc củ đêm cả ngày”. Và từ dó Mị sống như cái xác không hồn, “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi gì nữa”, lúc nào “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

     Nhà thống lý Pá Tra giàu có, kẻ hầu người hạ rất nhiều, Mị là con dâu nhưng cũng chỉ là nô lệ, chỉ là một công cụ lao động biết nói. Hơn thế nữa, Mị chẳng biết nói với ai, Mị như một con vật không cần ánh sáng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị hoàn toàn đối lập với không gian bao la rộng mở của bầu trời vùng núi, rộn ràng âm thanh và rực rỡ màu sắc. “Ớ cái buồng Mị nằm, kín nút, có một chiếc cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Và Mị sẽ sống ở đó cam chịu “’đến bao giờ chết thì thôi”.

     Trong suốt nửa đầu tác phẩm, người đàn bà ấy gần như lặng câm, sống âm thầm cô độc, tối tăm nhẫn nhục, không mảy may hi vọng có sự đổi thay. Nhưng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt được sức sống, muốn sống trong yêu  thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị.

     Những đêm tình mùa xuân tới, nghe tiếng sáo thổi gọi bạn đầu làng, tiếng sáo thiết tha bồi hồi, Mị hát thầm theo tiếng sáo. Những lúc này “lòng Mị đang sống về ngày trước”. Quá khứ của thời con gái hiện về, sung sướng tự do. Mị lén lấy rượu uống “ực từng bát” để quên buồn, quên đi thực tại hay để có đủ can đảm phản kháng thực tại? Mị quyết định đi chơi, “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, một sức sống tiềm ẩn đã bùng lên mạnh mẽ, Mị còn trẻ lắm, Mị phải sống như khát vọng thúc giục. Nhưng sự trỗi dậy ấy, một lần nữa, lại bị sự ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh, A sử trói đứng Mị vào cột nhà một cách tàn nhẫn, lạnh lùng. Trong tình trạng đau đớn về thể xác ấy, lạ thay, “Mị vẫn nghe tiếng xáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Đến nỗi Mị đã quên đi cảnh bị trói bi thẳm của hiện tại, “Mị vùng bước đi, nhưng tay chân đau không cựa được”.

     Như vậy, trong cái thâm u, tối tăm của cuộc đời Mị, luôn có những cơn sóng ngầm phản kháng. Và cơn sóng mạnh mẽ cuối cùng là hành động cắt dây trói cho A Phủ. Với đoạn văn hay nhất của truyện này, Tô Hoài đã tỏ ra rất chặt chẽ trong bố cục, tài tình trong việc sắp xếp các tình huống, thể hiện tâm lí, hành động của nhân vật một cách hợp lý, thuyết phục.

     A Phủ bị trói đứng bên góc nhà, gần nơi Mị thường thức dậy sớm để sưởi lửa. Đã mấy đêm liền, Mị thấy A Phủ đứng đó “mát mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”. “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Lúc này, Mị chỉ biết có mình và ngọn lửa, Mị còn thờ ơ với tất cả. Nhưng rồi trong cái đêm cuối cùng ở Hồng Ngài ấy, qua “ngọn lửa bập bùng sáng lên”, Mị đã thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm má đã xám đen lụi” trên khuôn mặt A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã khơi gợi cho Mị nhớ về ngày trước. Mị cũng bị trói đứng như thế, Mị khóc “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Dòng nước mắt của Mị ngày trước và dòng nước mắt của A Phủ lúc này tưởng chừng như hòa làm một, nó tạo thành sự cảm thông đau đớn và bùng cháy một thái độ căm thù mãnh liệt. “Chúng nó thật độc ác”. Trước đây vđi sự mê tín mông muội, Mị chịu yên phận trong cuộc sống đau khổ, bây giờ Mị cũng nghĩ thế. “Ta là thân đàn bà, nó đã dắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Nhưng nếu giải cứu cho A Phủ đi, Mị sẽ bị trói vào đây, chỉ nghĩ đến điều ấy, Mị đã cảm thấy sợ. Nói như Nam Cao trước kia, đó là “cái sợ cố hữu” của những người nông dân nô lệ.

      Nhưng rồi một hành động vô thức, “Mị rón rén bước lại … Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Đến lúc sực tỉnh, Mị mới hốt hoảng sợ hãi…. Động lực nào thúc đẩy Mị hành động như vậy? Trong logic phát triển của tính cách nhân vật, ở tình huống này, tác giả đã dẫn dắt chi tiết một cách hợp lý độc đáo. Người đọc chỉ có thể giải thích sức mạnh thúc đẩy Mị hành động lúc này là tình cảm của những người cùng cảnh ngộ, là sự giao hòa hai dòng nước mắt của hai số phận nhưng cùng chung kiếp đời nô lệ đau xót.

     A Phủ chạy đi, “Mị đứng lặng trong bóng tối”. “Rồi Mị cũng vụt chạy ra”, chi tiết nhỏ này đã thể hiện được cả cơn sóng gió trong tâm hồn Mị lúc này. Trước khi cứu A Phủ, chưa bao giờ Mị nghĩ rằng mình sẽ đi theo A Phủ. Nhưng đứng trước cái chết, bản năng sinh tồn trong con người Mị trỗi dậy, nó mạnh hơn tất cả, mạnh hơn thái độ cam chịu nhẫn nhục, nó có mạnh hơn cả “con ma nhà thống Lý”. Trước tình huống này Mị chỉ còn một con đường, phải chạy theo A Phủ để được sống, Mị có biết đâu, khi cầm con dao cắt sợi dây mây để cở trói cho A Phủ cũng chính là lúc Mị tự cởi trói cho cuộc đời mình. Họ đã cứu sống nhau, đã tự giải phóng cuộc đời bằng sự quật khởi của chính mình.

     Đến Phiềng Sa, có vợ chồng Mị mới biết được thế nào là hạnh phúc, gia đình Mị và A Phủ còn phải chiến đấu với bọn thực dân dưới dự dìu dắt của A Châu vì Mị đã biết được ai là kẻ thù của mình. Mị cũng không còn sợ con ma nhà thống lí. Mị ngẩng khuôn mặt lên khi làm việc và lại hát những bài tình ca mỗi độ xuân về. Sự đổi đời của Mị và A Phủ khi đến Phiềng Sa cũng chính là sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

     Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã chứng tỏ sự lão luyện của một nhà văn hiện thực trong việc xây dựng điển hình, khẳng định một cách nhìn mới về hiện thực. Đó cũng chính là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng, tình cảm nhà văn. Vợ chồng A Phủ là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã khái quát được con đường đi, sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc sau Cách mạng bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, sống động và đặc sắc là một tấm lòng sâu nặng đối với các dân tộc miền núi anh em.

Bài làm 12

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Bài làm 13

Tô Hoài là nhà văn có vốn sống sâu sắc về cuộc sống và tính cách của con người Tây Bắc, có lẽ cũng bởi vậy mà trong những tác phẩm của mình Tô Hoài hình ảnh con người, văn hóa Tây Bắc luôn đậm nét, đúng như những tâm sự mà Tô Hoài từng thổ lộ: “đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về Tây Bắc có thể kể đến, đó chính là Vợ chồng A Phủ.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc được trích từ tập Truyện Tây Bắc, câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ gia đình mà trở thành người con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí Pá Tra. Theo dõi cuộc đời của Mị, ta cũng thấy được hành trình hồi sinh, trỗi dậy của sự sống bị vùi dập bởi thần quyền, cường quyền.

Mị là một cô gái Tây Bắc xinh đẹp, trước khi trở thành con dâu gạt nợ nhà Thống lí, Mị được rất nhiều chàng trai theo đuổi vì vẻ ngoài xinh đẹp, tài hoa cùng sức sống tươi trẻ, căng tràn sức sống. Mang trong mình sức trẻ, khát khao hạnh phúc nhưng Mị lại có số phận bất hạnh, éo le vì gia đình Mị phải chịu món nợ lớn đối với thống lí Pá Tra.

Trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra không chỉ tước đoạt đi hạnh phúc mà còn khiến Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời trở nên lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, hi vọng sống cũng bị tước đoạt khiến Mị trở nên cam chịu, đáng thương.

Nhân vật Mị được tác giả Tô Hoài ưu ái miêu tả với những vẻ đẹp tinh khôi, tuyệt vời nhất của một người đàn bà. Không chỉ xinh đẹp, Mị còn có tài thổi sáo khiến bao người “ngày đem thổi sáo đi theo Mị”, rồi những đêm tình mùa xuân, những chàng trai “đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Trước khi bị đẩy vào guồng quay của số phận bất hạnh, Mị từng sống những ngày tháng tươi đẹp nhất của tuổi trẻ, Mị từng yêu và được yêu.

Mị mang trong mình khát khao tự do, khát khao hạnh phúc, khi biết gia đình có món nợ lớn với gia đình thống lí, Mị đã từng xin bố cho mình làm nương, làm rẫy lấy tiền trả nợ chứ không chấp nhận làm con dâu gạt nợ “ bố đừng bán con cho nhà giàu, con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”. Nhưng cuộc đời nào được như ý muốn, Mị bị A Sử con trai thống lí nhìn trúng nên buộc phải về nhà thống lí với thân phận con dâu gạt nợ nhưng thực chất lại là người ở không hơn không kém.

Mị là người con có hiếu với cha, trước sự ép buộc làm dâu gạt nợ, Mị đã từng phản kháng dữ dội đễn mức muốn ăn lá ngón trả nợ, nhưng cũng vì thương cha nên Mị đã từ bỏ quyết định tự tử giải phóng mình để gánh món nợ gia đình giúp cha yên tâm an dưỡng tuổi già.

Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị phải làm việc quần quật ngày đêm như “con trâu con ngựa”. Mị bị hành hạ cả về thể xác và tinh thần, lâu dần Mị đã tê liệt “sống trong cái khổ Mị quen rồi”, Mị trở nên lầm lũi, cam chịu như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Khi bố đã mất Mị cũng không còn ý định tự tử nữa, có thể thấy cường quyền không chỉ chà đạp con người về thể xác mà khủng khiếp hơn nó có thể “giết chết” đi sự sống của một cô gái hồn nhiên, yêu đời như Mị.

Tuy nhiên,s ự sống, khát vọng sống của Mị chỉ tạm thời bị tê liệt, chỉ cần có chất “xúc tác” là có thể bùng cháy mãnh liệt. Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng hát gọi bạn tình, Mị chợt nhận ra mình còn trẻ, cảm nhận được khát vọng chân thực nhất của mình “Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có gia đình như Mị vẫn đi chơi”.

Hóa ra khát vọng sống tự do, hạnh phúc bên trong con người Mị không mất đi mà nó vẫn tiềm ẩn bên trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Ngọn lửa của sự sống ấy tuy le lói nhưng vẫn lặng lẽ cháy, chỉ cần một cơn gió thổi đến sức sống ấy lại bùng cháy trở lại. Giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh sự sống mãnh liệt ấy, Mị đã vượt qua bao nỗi sợ hãi, cường quyền, thần quyền và cả cái chết để cứu A Phủ cũng như giải cứu cho chính bản thân mình.

Sự thức tỉnh và bùng cháy của sự sống trong tâm hồn Mị đã khẳng định sức sống tinh thần mạnh mẽ có thể đưa con người thoát ra khỏi ám ảnh khổ đau, bất hạnh để tự giải cứu mình, hướng đến một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Ads Blocker Detected!!!

Chúng tôi đã phát hiện ra rằng bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Hãy hỗ trợ chúng tôi bằng cách tắt các trình chặn quảng cáo này.